Hiển thị các bài đăng có nhãn Du Ngoạn. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Du Ngoạn. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 7 tháng 1, 2012

Ngày cuối năm với Pietro Sequi (TT)

Sân ga cáp treo chiều cuối năm vắng lặng, thưa thớt khách, những chiếc cabin miệt mài thầm lặng chạy vòng lên vòng xuống trượt theo những sợi cáp chờ đợi những vị khách bước vào. Thú thật cáp treo Tà Cú đi vào hoạt động đã gần 10 năm, tôi lại là người ở địa phương này nhưng chưa một lần bước chân đến khu vực nhà ga chứ đừng nói đi cáp treo, nhiều khi rất ái ngại “biết trả lời sao” nếu như có ai đó hỏi về cáp treo Tà Cú, lần này thì nỗi “ái ngại” đã được giải tỏa. Khác hẳn với những gì tôi mường tượng trước đây, sân ga phải ở ngoài trời, những chiếc cabin tuy có chạy chậm khi vào ga nhưng phải bước vội lên mới kịp, chậm chân thì phải chờ chuyến sau, khoang ngồi trượt vùn vụt như ta ngồi trong xe hơi, ai không quen không dám nhìn ra ngoài, ngồi trong khoang bồng bềnh như đi tàu thuyền trên sông biển… Ngược lại sân ga được thiết kế trong nhà ở lưng chừng núi, rộng rãi, mát mẻ, đẹp đẽ và rất lịch sự, những chiếc cabin gần như nối đuôi nhau chầm chậm, chầm chậm khi vào ga, đến một vị trí nhất định, cửa tự động mở ra ta chỉ việc bước nhẹ nhàng vào, tôi thấy còn dễ dàng và an toàn hơn bước vào thảm trượt của mấy siêu thị khi muốn lên tầng trên, rồi cửa cũng tự động khép lại, theo hướng đỉnh núi trượt tới, nhẹ nhàng, êm ái như ta ngồi trong nhà; nhìn ra ngoài, cả một khoảng không bao la đầy dẫy những vườn cây ăn trái, những khu dân cư, con đường Quốc lộ thẳng tắp lí nhí những chiếc xe qua lại rồi mỗi lúc một nhỏ đi rồi mất hút. Hai bên dọc theo tuyến cáp treo, rừng cây to lớn dày đặc xanh tươi, cỏ cây hoa lá chen chúc nhau, ngắm chưa thỏa chí cabin chậm lại vì đã tới nơi, tức là chỉ mất khoảng 7 phút.

Khu vực Chùa núi Tà Cú đón chúng tôi bằng những cơn gió chiều lồng lộng mát rượi, tâm hồn cảm thấy thư thái nhẹ nhõm như lánh xa cõi trần, cũng trên con đường đất dẫn đến Chùa cách đây hơn mười năm tôi đã đi nhưng hôm nay nhiều đoạn được xây cấp bằng đá lên dốc xuống dốc ngoằn ngoèo, đi một đoạn là đến quần thể 3 tượng Phật uy nghiêm sừng sững được gọi là “Tam thế Phật”, có khác hơn xưa là thêm tượng “Tam Tạng” mới được xây dựng mấy năm gần đây cũng to cao nhìn thẳng về hướng Tây cách “Tam Thế Phật” độ vài chục mét. Tới cổng Chùa nhìn lên khu vực Chánh Điện, những bậc tam cấp cao và dài hun hút, tôi quên đếm là có bao nhiêu bậc như đã từng đếm ở các Chùa đã từng đến. Càng bước nhịp tim càng đập mạnh hơn phải dừng lại nghỉ ngơi, đúng là thời gian, tuổi tác đã lấy đi sức dẻo dai thời trai trẻ ngày nào nhưng không vì thế mà mất đi sự náo nức rộn ràng khi đến thăm Chùa. Khu vực Chánh Điện ngổn ngang vật liệu vì Chùa đang được trùng tu, sửa chữa và nâng cấp, có nhiều công trình đang đươc khởi công xây dựng mới. Tưởng giống như cách đây hơn 10 năm, tôi “lanh chanh” dẫn các bạn rẽ tay mặt để lên khu vực tượng Phật nằm, có tiếng gọi giật lại của một anh làm nghề chụp ảnh - Đi hướng này chú ơi. Thì ra trước đây từ Chánh Điện rẻ tay mặt men theo những phiến đá gồ gề mòn lẳng vì những bước chân người qua lại là đến Hang Tổ, rồi tiếp tục theo triền dốc là đến khu vực có bức tượng Phật nằm, rẻ tay trái là đến quần thể “Tam Thế Phật”. Nay đã khác, muốn đến khu vực Chánh điện phải đi qua 3 bức tượng Phật trước, từ đó rẻ tay trái mới đến tượng Phật nằm (còn gọi là Phật tích nhập Niết bàn), lối đi được làm mới bằng những tam cấp, hai bên có thanh chắn để vừa đi vừa vịn vào cho những ai cảm thấy mệt vì phải lên xuống dốc. Thấy chúng tôi xuống dốc theo tam cấp hơi khó khăn vì đầu bàn chân phải bấm xuống để chịu lực, anh làm nghề chụp hình hướng dẫn phải vừa đi vừa nhún sẽ giảm được đôi chân bị căng cơ, thế là bạn tôi vừa đi vừa nhún giống như múa làm mọi người không nhịn được cười.

Có một đôi bạn trẻ, trẻ lắm tay trong tay hớn hở đến thăm Chùa, đưa cho tôi cái điện thoại di động nhờ chụp cho mấy tấm hình làm kỷ niệm, tôi nhận lời ngay, ra vẻ thành thạo trong nghề nhiếp ảnh, khi thì sửa dáng đứng của 2 người, khi thì yêu cầu ngả đầu bên này, để tay bên kia. Thấy tôi dễ tiếp xúc, pha chút khôi hài và biết là người ở địa phương này nên không ngần ngại hỏi - Chú ơi, cháu thấy dọc theo hai bên lối đi và cả khu vực có tượng Phật nằm, từ bụi cỏ đến những nhánh cây người ta cột nhiều đoạn dây nhỏ, đủ màu sắc, đủ mọi chất liệu là sao hả chú? Một thoáng chần chừ. Bí. Đôi bạn trẻ “có ngờ đâu rằng” tuy là người ở địa phương nhưng hơn mười năm rồi chưa hề bước chân tới Chùa, làm sao biết đuợc những điều mới mẻ nơi đây. Hỏi thăm một chị bán nhang dưới gốc cây thật to mới biết những người đến viếng Chùa họ gởi lại nơi đây những điều xui xẻo trong cuộc sống, những điều bất hạnh trong cuộc đời bằng cách cột một đoạn dây ngắn vào nhánh cây hoặc bụi cỏ, có loại dây gì cột dây nấy, lòng sẽ thanh thản trở về như vừa gội rửa sạch sẽ được những lo toan mà họ đang gánh chịu. Nhìn hai bạn trẻ tung tăng líu lo, tôi lại nghĩ về thời trẻ của tôi và các bạn…

Tượng Phật dài 49 mét ở tư thế nằm, đầu tựa vào bàn tay mặt, hai chân duỗi thẳng chồng lên nhau được trùng tu, sơn lại màu trắng, sáng rực giữa nền xanh thẳm của rừng cây cao to bạt ngàn. Dưới chân đế tượng Phật, nhiều du khách đốt nhang cúng lạy có cả khách nước ngoài. Ông Sequi khó khăn lắm mới đốt được nén nhang vì càng về chiều trên đỉnh núi gió càng mạnh, ông từ tốn cắm vào lọ rồi đứng ngắm nhìn bức tượng thật lâu, tôi cố ý nhìn thật sâu vào mắt ông nhưng không tài nào hiểu được trong đầu ông nghĩ gì lúc này, chỉ thấy một vẻ thành kính tôn nghiêm trong dáng đứng và trên khuôn mặt. Không còn thời gian để đến Hang Tổ và chiêm ngắm những kiến trúc khác của Chùa núi Tà Cú, Chúng tôi quyết định “hạ san” xuống núi bởi gia đình ông Sequi phải về lại SaiGon trong đêm kịp đón mừng năm mới.

Chia tay nhau trong ráng chiều êm ả ở chân núi Tà Cú, ông Sequi bắt tay từng người một và luôn miệng nói lời cám ơn, hẹn Tết gặp lại, có nghĩa là Tết ta. Đâu đó xa xa vang lên những tiếng chim kêu như gọi nhau về tổ sau một ngày tung tăng bay lượn, thỉnh thoảng một vài cơn gió nhẹ từ hốc núi thổi ra mát mẻ sảng khoái, làm mái tóc của bé Anna xòa xuống khuôn mặt. Trong bộn bề của cuộc sống hàng ngày, có được những khoảnh khắc với gia đình ông Sequi và các bạn thật vui, thật thú vị và thật đáng nhớ./.

PĐN (hết)

Thứ Sáu, 6 tháng 1, 2012

Ngày cuối năm với Pietro Sequi

Gia đình tôi quen biết một vị khách người Italia, dáng hình to cao, tính tình vui vẻ, dễ mến, dễ chiếm được cảm tình của người khác lần đầu gặp, tên là Pietro Sequi, thường gọi là ông Sequi, mà nói thật đến lúc viết bài này tôi chẳng nhớ tên là gì cả, phải hỏi lại người bạn mới biết, có cô vợ người Việt Nam xinh xắn dễ thương, có một con gái Anna khoảng 7, 8 tuổi nhỏ nhắn đẹp như một thiên thần nói 4 thứ tiếng Ý, Anh, Pháp và tất nhiên là Việt, còn ông ấy không biết nói tiếng Việt nên cô vợ kiêm luôn phiên dịch. Cách đây gần một năm, vì thích xem vườn thanh long, hoa trái cây cỏ vùng nông thôn nên một người bạn đã đưa gia đình ông đến nhà tôi chơi. Hôm đó chiêu đãi gia đình ông Sequi bằng món rất dân dã đó là gà ta nấu lá giang, lần đầu tiên ăn thích thú khen ngon và cũng là lần đầu tiên thấy cây lá giang, cô vợ xin một gốc về “Thành phố” trồng, tôi ra hàng rào bứng luôn cho mấy gốc, có lẽ về trồng khó sống vì đặc điểm của cây lá giang ở đâu thổ nhưỡng và khí hậu thích hợp tự mọc và lây lan, bứng trồng nơi khác tỷ lệ sống rất thấp.

Có người bạn hỏi ông Sequi vì sao lại lấy vợ Việt Nam và sống ở Việt Nam. Ông ấy trả lời: Năm 19 tuổi, tôi có nghe đến một quốc gia tên Việt Nam nhưng khi tới Việt Nam tôi đã 70 tuổi, một đất nước xinh đẹp, người dân hiền hòa dễ mến đặc biệt là phụ nữ rất dễ thương. Tôi không hiểu vì sao một dân tộc cần cù hòa nhã mến khách như thế lại phải chịu đựng những mất mát, đau thương, khổ cực của bao năm trời chiến tranh liên miên…Tôi yêu mến đất nước và con người các bạn nên quyết định lấy vợ người Việt. Khi mẹ tôi tại Ý qua đời, tôi đưa thi hài bà cụ qua chôn cất tại Việt Nam vì Việt Nam là quê hương thứ 2 của mình. Nghe mà thấy bùi ngùi và cũng tự hào vì mình là người Việt Nam...

Lần này, chúng tôi lại có dịp tiếp gia đình ông Sequi vào đúng cái ngày cuối cùng của năm 2011, thời điểm thật đáng nhớ, cùng ăn trưa với gia đình ông tại nhà hàng Thủy tạ khu du lịch Tà Cú, cũng có món gà ta nấu lá giang, tép xào hành mỡ xúc bánh tráng nướng vàng hươm giòn tang, ếch xào lăn. Đến món lươn um, một người bạn nói: con này giống con rắn nhưng không phải con rắn, con lươn thì không biết (tức là không biết dịch ra tiếp Pháp là gì - Ông Sequi nói chuyện với chúng tôi bằng tiếng Pháp, với vợ bằng tiếng Anh) cuối cùng không biết cô vợ dịch thế nào mà ông ấy gật gật đầu rồi cười, thì ra bên nước Ý cũng có con lươn, to bằng cổ tay, ông ấy thỉnh thoảng cũng ăn. Có một anh cán bộ huyện vừa mới câu được con cá mè nặng 1,5 kg trong ao cá của Nhà hàng Thủy tạ đem đến tặng luôn ông Sequi cho dù mới gặp lần đầu, tình huống thật bất ngờ và thú vị, rồi nâng ly, xuống ly, anh cán bộ chỉ nói được hai tiếng yes, ok còn lại chỉ bằng động tác điệu bộ và vài câu phiên dịch thế mà câu chuyện càng lúc càng rôm rả, nói cười vui vẻ. Cá được nhờ nhà hàng chiên xù, cuốn bánh tráng rau sống, chấm với nước mắm, thật ngon.

Rời nhà hàng Thủy tạ, chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình lên Chùa núi Tà Cú bằng cáp treo, thường thì những ngày rằm, mồng một hoặc đầu năm người ta mới đi Chùa lễ Phật, cầu kinh, hái lộc đầu xuân, mong muốn cuộc sống vươn lên như cây cối vươn chồi nẩy lộc. Mỗi người một mục đích, trẻ thì cầu xin học hành giỏi giang, thi đậu Đại học, lớn một chút thì cầu xin cho gặp được ý trung nhân kết tóc se duyên suốt đời hạnh phúc, già thì thì xin cho con cháu khỏe mạnh đầm ấm, “sồn sồn” như chúng ta thì cầu xin… đủ thứ. Còn tôi lại đi Chùa vào ngày cuối năm mà cuối năm Tây mới ngược đời chứ! Mới nghe thì cũng thấy hơi chướng chướng, nhưng nghĩ lại thấy cũng xuôi xuôi vì tôi đi Chùa chẳng phải để chiêm bái lễ Phật, cũng chẳng phải để cầu xin điều gì mà để thưởng ngoạn cảnh đẹp, để xem Chùa hôm nay và Chùa lần cuối tôi lên cách đây hơn 10 năm khác nhiều không, để ngắm nhìn không gian bao la ở độ cao gần 700 mét, để nghe chim kêu vượn hót… và vì một lý do chính yếu là ông Sequi đến Khu du lịch Tà Cú muốn lên Chùa, sẵn dịp cùng đi luôn cho vui nên đầu năm hay cuối năm, năm Ta hay năm Tây không liên quan gì cả…

PĐN (còn nữa)

Thứ Ba, 19 tháng 10, 2010

NHỮNG CHUYẾN ĐI - Chùa Hang - Tập cuối

Từ bãi tắm của các nàng tiên nhìn chếch về hướng Tây, dưới những rặng dừa xanh rì, những hàng phi lao cao vút là làng chài La Gàn (tôi tạm gọi thế vì không biết tên), trong đấy có Lăng Ông, là nơi thờ những Bộ xương cá Voi vốn được Vua Gia Long sắc phong là Thần Nam Hải, ngư dân kính trọng gọi tắt là “Ông”. Cũng giống như các làng chài ven biển từ Đèo Ngang vào tới Mũi Cà Mau, cá Voi gắn liền với cuộc sống của người dân, cùng dựa vào nhau vượt qua những cơn phong ba bão táp ngoài biển khơi. Tương truyền, cách đây trên 100 năm, ngư dân La Gàn phát hiện xác cá Voi chết (còn gọi là “lụy”) lập lờ trôi vào bờ, thanh niên trai tráng đưa “Ông” về làng, nhưng Ông to và nặng như “Con Voi” nên phải mai táng tại bờ biển, 3 năm sau (mãn tang) mới cải táng, đưa cốt Ông về thờ. Lăng Ông được hình thành từ đó (Lăng ở La Gàn còn có tên khác là “Phủ Ngọc Cốt”). Mỗi lần phát hiện có cá Voi chết, ngư dân tổ chức các nghi thức tẩm liệm, cung nghinh về Lăng mai táng một cách rất long trọng và xem việc thờ cúng cá Voi là một tập tục rất cần thiết trong đời sống tâm linh. Đến nay đã có trên 100 bộ cốt Ông được thờ tại Lăng này.

Theo một ngư dân lớn tuổi trong làng (đã 4 lần phát hiện cá Ông lụy) kể lại: vào một buổi sáng tháng 8 ÂL năm 1982, một đàn cá Voi ước chừng trên 20 con dìu một “Ông” lụy từ biển khơi tiến vào bờ, chờ cho đến khi dân làng nổi kèn trống nghinh Ông về Lăng, đàn cá kia mới quay đầu trở về biển khơi. Thế mới biết, loài cá này cũng sống thành cộng đồng, có tổ chức và quan tâm tới đồng loại. Cá Voi chết trôi vào bờ gần đây nhất là vào tháng 7 ÂL năm 2009, do một du khách từ xa đến tắm biển phát hiện.

Tôi nghe nói, trước khi tổ chức công nhận kỷ lục bộ xương cá Voi lớn nhất vùng Đông Nam Á tại Vạn Thủy Tú (Phan Thiết), các chuyên gia rất bất ngờ thấy bộ xương cá Voi ở Phủ Ngọc Cốt (La Gàn) còn lớn và ước tính còn nặng hơn ở Vạn Thủy Tú. Do đó, kỷ lục về bộ cốt Ông Nam Hải ở La Gàn là điều cần được xác minh công nhận.

Cũng trong làng chài La Gàn kia, một người quen có lần mời tôi và mấy người bạn về nhà chơi, chiêu đãi món cá Lồi xối mỡ, món này nhiều bạn cũng đã biết rồi, nhưng điều đáng nói là phải ăn với một loại ớt, vì chưa có “thương hiệu” nên gọi là ớt “hiểm”, so với trái ớt vàng “khổng lồ” trong vườn của bạn Hoàng Gia Kế thì khác một trời một vực, chỉ bé tí, lớn hơn cái ruột bút bi một chút, dài khoảng trên dưới một phân. Cũng cuốn cá, rau sống bằng bánh tráng mỏng cho vào miệng, cắn ngay một trái ớt, vị cay cấp thời như lửa đốt nhưng không gắt hòa lẫn với cá cứ thế từ từ rồi thấm dần, thấm dần rồi trôi tuột, trôi tuột…cho đến khi không còn chỗ trôi tuột nữa mới thôi. Sau đó nhấp một ngụm rượu “ngâm đủ thứ” mà bạn tôi nói vui là uống vào không bổ dọc cũng bổ ngang, không bổ xuôi cũng bổ ngược. Hơi ấm cứ thế rân rân chạy từ trên xuống dưới, rồi từ dưới dội ngược lên trên…khà một cái, đã hết chỗ chê (bạn Mai Thân thường nói “quá đã”). Chủ nhà khoái lắm, thấy khách liên tục nâng ly. Hình như “độc trị độc”, vị cay của ớt làm giảm bớt đi nồng độ của rượu nên uống mãi không thấy say. Tôi tửu lượng kém, ly rượu giống như ly của Thạch Sanh, nâng hoài mà không hề cạn đáy. Tôi hỏi:

-Đây là loại ớt gì mà thơm, ngon thế?
-Đây là giống ớt đặc biệt, chỉ có ở La Gàn, muốn ăn phải trèo lên cây mới hái được.
-Trời đất, loại ớt này thuộc “bộ giống cổ thụ” chắc?
-Không tin hả? Mời tham quan.

Cả bọn kéo nhau ra sau vườn, đúng thật, anh ấy leo lên một cây (giống như cây Đa) to tướng, hái nguyên một nắm trước sự ngạc nhiên của mọi người…Thì ra, một loại chim chuyên ăn ớt đã thải ra trúng hốc cây trên cao, nhờ mùa mưa, cây mọc, phát triển xanh tươi, cành lá xum xuê, dày đặc trái là trái…Vỡ lẽ, mọi người cùng cười chảy cả nước mắt.

Được biết, đây là loại ớt có ở vùng này từ lúc nào không ai rõ, nhân giống bằng phương pháp đúc từ hột rất khó mọc. Tự rụng rồi tự mọc một cách tự nhiên hoặc do chim ăn thải ra đất, mọc dưới bóng râm trong vườn hoặc theo hàng rào. Trái ớt hiểm La Gàn được xếp vào loại “đặc sản”, tuy giá cao hơn các loại ớt khác nhưng hiếm khi thấy bán ngoài chợ, nó được các nhà hàng đặt mua trước. Khách du lịch “sành điệu” đòi cho được loại ớt này mới gọi thức ăn.


Buổi chiều ở làng chài La Gàn thật yên tĩnh, nghe được cả tiếng gió xào xạc trên những ngọn dừa, nghe được cả tiếng của những đợt sóng nối nhau vỗ vào bờ; trước căn nhà lá trong vườn cây, chú bé khoảng 5-7 tuổi, mình trần, da thịt chắc nịch, đen nhánh vì nắng gió đang ngồi nhìn cha vá lưới, chăm chú quan sát từng nút thắt khéo léo để rồi một ngày nào đó, cái nghề “đi biển” kia lại được truyền cho con cháu như bao đời nay cha ông đã truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Sau nhà, khói lam chiều chuẩn bị cho bữa ăn của người mẹ bốc lên cao rồi tụ lại dưới những tàn cây. Mâm cơm duy nhất chỉ tô canh nấu bằng lá me với mẽ cá tươi mới đánh bắt trong ngày và một dĩa cá kho; vợ chồng con cái quây quần vừa ăn vừa vui vẻ thì thầm trò chuyện như sợ khuấy động cái không gian yên tĩnh của một vùng quê hiền hòa. Ngoài kia, những tia nắng cuối cùng trong ngày tắt dần, làng chài chìm dần vào bóng đêm. Mái ấm hạnh phúc của một gia đình lồng trong khung cảnh một làng quê thanh bình đẹp như một bức tranh làm tôi nhớ mãi cho đến bây giờ, đặc biệt là mỗi khi có dịp đi qua những vùng quê ven biển.

Rồi đây, hòa nhịp với đà phát triển của xã hội; rồi thì cái làng chài yên bình kia có còn giữ được vẻ nên thơ nữa không hay sẽ trở nên xáo trộn; rồi thì những khối bê tông trình trịch của những ngôi nhà mới xây sẽ thay cho những căn nhà cổ xưa; rồi thì xe cộ tấp nập bát nháo tung đầy bụi khói; rồi thì hàng quán sẽ mọc lên như nấm; rồi thì cuộc sống sẽ trở nên vội vã, ồn ào, náo nhiệt; rồi thì cái làng chài được mệnh danh là cổ nhất, xưa nhất kia sẽ rối tung lên; rồi thì, rồi thì còn nhiều thứ sẽ rồi thì nữa…Thế là hình ảnh yên ả thanh bình của cái làng chài may ra chỉ còn trong trí nhớ của những người lớn tuổi đã sinh ra và lớn lên ở vùng này hoặc những du khách đã có dịp dừng bước nơi đây. Biết làm sao được. Người dân La Gàn muốn thế, họ muốn đổi thay, họ muốn có cuộc sống với những tiện nghi hiện đại, họ muốn trở mình vươn dậy theo từng bước phát triển của xã hội….

Cũng không thể biết được tương lai sẽ ra sao, thôi thì một đêm nào đó, đung đưa theo nhịp võng trước hiên căn nhà lá của làng chài êm đềm kia; trong cái nửa tỉnh nửa mê của men rượu “ngâm đủ thứ”, của ớt “cổ thụ”, mắt lim dim ngắm nhìn hàng hà sa số những ánh đèn câu mực phát ra từ khơi xa như ngày hội hoa đăng; văng vẳng đâu đây tiếng chuông chùa vọng lại hòa lẫn tiếng sóng vỗ rì rào; mơ màng theo hai chàng Lưu Nguyễn lạc vào chốn bồng lai; khi về lại trần thế, nhớ xin mấy viên sỏi đủ thứ màu, mua mấy món quà ở gian hàng lưu niệm để khoe với bạn bè, người thân là ta cũng đã đi đến vùng đất Bắc Bình, Tuy Phong; chiêm bái Chùa Hang Cổ Thạch, tắm biển Cà Dược, bước trên bãi sỏi lung linh màu, ngắm nhìn vịnh Hải Âu, thưởng thức rượu “ngâm đủ thứ” với ớt “cổ thụ”. Đây cũng là quê hương của Thầy, nơi ở của bạn bè đã từng chung đèn sách dưới mái trường Hải Long thân thương xa xưa…

Tôi viết về Chùa Hang tương đối chi tiết để các bạn cứ tha hồ hình dung, tha hồ tưởng tượng, tha hồ mơ mộng, mà nếu thấy chưa thỏa mãn thì về Phan Thiết, gặp Mai Chí, gặp Lê Thị Lành rồi ta lại đi Chùa Hang Cổ Thạch, nhân tiện ghé thăm Thầy Cương, ghé thăm Tư Hào, ghé thăm Diệu Hoàng một thể./.
Hết

Ghi chú: Nhớ nhiều về các bạn nên thỉnh thoảng đưa tên vào bài viết, đồng ý nhé!
Tháng 10/2010 – Phạm Đình Nhân

Chủ Nhật, 3 tháng 10, 2010

NHỮNG CHUYẾN ĐI - Chùa Hang - Tập 4

Chùa Cổ Thạch còn là nơi lưu giữ được nhiều di sản có giá trị lịch sử, nhiều di sản văn hóa Hán Nôm, liễn, đối, hoành phi và những tài liệu có từ những ngày đầu thành lập Chùa, một số cổ vật có giá trị khác như: Đại Hồng Chung, Trống Sấm đều có niên đại từ thế kỷ thứ XIX. Để tưởng nhớ công lao của vị Thiền sư Bảo Tạng, Chùa lấy ngày 25 tháng 5 AL hàng năm làm ngày giỗ tổ. Vào ngày này hoặc những ngày lễ lớn như Phật Đản, Vu Lan…chúng ta sẽ được chứng kiến không khí tưng bừng của hàng ngàn thiện nam, tín nữ tham gia lễ hội; nhà Chùa tổ chức cơm miễn phí cho khách hành hương với những món chay ngon miệng. Nếu ai không quen ăn chay, xin mời xuống các nhà hàng dưới chân núi, ở đây đủ món ăn chơi, trái cây đủ loại: xoài, chuối, cam, quýt, mít, ổi, me, cóc…, sơn hào hải vị: nghêu, sò, ốc, hến, tôm, cua, cá, mực… loại nào cũng có. Ngoài ra cũng có món bánh tráng mắm ruốc, cựu học sinh Hải Long mà không biết món này xem như chưa phải dân Rạng-Mũi Né, nghe nói hồi đó, trước Trường Hải Long có một quán nhỏ, dựng tạm bằng tranh tre nứa lá của Chị Bảy Nở chuyên bán món bánh tráng mắm ruốc, giờ ra chơi nhiều người đến mua, nhất là các nữ sinh, mắm ruốc được giã với nhiều gia vị trong đó có tỏi, ớt, trông rất sạch sẽ và hấp dẫn. Ăn bằng cách múc 1 muỗng nhỏ mắm cho lên miếng bánh tráng nướng nhiều mè, bẻ một miếng nhỏ, quệt miếng mắm cho vào miệng, nhai giòn tang; cũng có người thích thưởng thức theo kiểu lấy bánh tráng mỏng, quệt mắm ruốc, bóp vụn bánh tráng nướng bỏ vào, cuốn tròn lại như ngón tay cái, rồi cắn, rồi nhai, rồi hít hà sau đó uống thêm một ly nước đá bào tức là cục đá lạnh được bào nhuyễn, xịt một chút xi-rô là tuyệt vời.

Buổi sáng các quán dọc theo đường ra biển còn có món mì quảng, nhưng tôi dám chắc là không thể nào ngon bằng mì quảng do bạn Trần Vĩnh Lại nấu chiêu đãi các bạn ở Sài Gòn được (chưa ăn nhưng nghe bạn Thanh Vân diễn tả đủ thấy ngon). Bởi trong tô mì Trần Vĩnh Lại ngoài cái ngon của hương, của vị, còn có cả cái ngon của nghĩa, của tình. (bạn ấy còn hứa nấu cơm gà chiêu đãi tôi).

Gác chuông – Cổ Thạch Tự


Thời gian trôi nhanh thật, chưa thưởng ngoạn bao nhiêu mà mất hơn một buổi rồi, muốn chiêm ngắm cho hết có lẽ phải cả ngày. Tôi nghe nói bên Trung Quốc, có một khu vực với núi non trùng điệp, rừng cây bạt ngàn nguyên sinh, nơi đó tọa lạc trên 1.500 ngôi Chùa trong một diện tích vô cùng rộng lớn chẳng biết bao nhiêu mà nói, có những Chùa chỉ dùng để lưu trữ toàn bộ kinh Phật, có những bộ kinh cổ rất quý hiếm. Tôi nhẩm tính, muốn tham quan cho hết quần thể một ngôi Chùa phải mất ít nhất 2 ngày, vậy thì muốn chiêm bái toàn bộ khu vực này (không tính thời gian đi từ chùa này đến chùa kia) thì phải mất 3.000 ngày, tức là ít nhất trên 8 năm.

Đứng trên tầm cao của Chùa Hang, phóng tầm mắt ra xa, cả một vùng non nước hữu tình hiện ra choáng ngợp kỳ vỹ; thấp thoáng bãi biển Cà Dược, mũi La Gàn, các đồi cát nhấp nhô trãi dài theo bãi biển rất nên thơ; màu xanh của trời, của biển, của cây cỏ hòa trộn lẫn nhau làm tâm hồn ta trở nên thư thái một cách lạ lùng. Thế thì không lý do gì mà đã đến Cổ Thạch lại không chiêm ngưỡng những điều tuyệt diệu của biển ở đây.


Từ đỉnh núi Linh Thứu nhìn ra bãi Cà Dược


Theo con đường cũ, ta xuống núi, ra hướng biển; đại dương mênh mông rồi lắng lại bằng một bờ vịnh hình vòng cung với “một trời” sỏi là sỏi, đủ kích cỡ, nhỏ từ viên bi cho đến lớn bằng nắm tay, vì đủ loại kích cỡ nên gọi là cục sỏi cũng được, hòn sỏi cũng đúng mà viên sỏi cũng chẳng sai, hòn nào hòn nấy tròn lẳng, bóng láng, đủ màu sắc: trắng ngà, đen tuyền, nâu sẫm, tím than, xám chì, vàng nhạt, xanh lục, đỏ thẩm, …kể mãi không hết, nằm chồng chất, xếp từ lớp này lên lớp khác không biết dày bao nhiêu là thước tấc; hiếm nơi nào trên thế giới có bãi sỏi nhiều màu đến thế; có người gọi là bãi đá Cà Dược, người thì gọi bãi đá Cá Sấu (vì dáng dấp giống như con cá sấu khổng lồ đang nằm), người thì gọi là bãi đá bảy màu, tôi thì gọi là bãi sỏi “tùm lum màu” và nếu cứ để chân trần bước trên đá sẽ có cảm giác như được mát-xa cả lòng bàn chân; nghe nói nếu ngâm những viên sỏi trong dung dịch hóa chất (là hóa chất gì thì tôi chẳng rõ) màu sẽ ửng sáng lên và bóng một cách kỳ lạ . Nhiều người chở cả xe về trang trí nhà cửa nên gần đây người ta không cho lấy nữa, ta xin vài viên về làm kỷ niệm có lẽ không đến nỗi hẹp hòi không cho?


Bãi sỏi tùm lum màu


Mũi La Gàn còn có hàng ngàn ghềnh, khộp, khe, hốc là nơi định cư lý tưởng của loài chim Hải âu; hàng năm cứ vào khoảng từ tháng giêng đến tháng bảy âm lịch là mùa các nục, cá cơm; hàng hà sa số chim Hải âu từ đẩu từ đâu kéo về nhập bầy với chim tại chỗ bay lượn, kiếm ăn theo luồng cá làm trắng cả một vùng non nước, í ới gọi nhau tạo ra những âm thanh rất là vui tai. Có người nói chim Hải âu là chim báo bão hoặc chim khí tượng, tôi thì gọi là chim “dự báo được mùa” bởi hễ nguồn cá dồi dào là chim về nhiều, ngư dân sẽ có những mẽ lưới bội thu. Điều ngạc nhiên là chim nhiều như thế nhưng không thấy bất cứ người dân địa phương nào săn bắt (kể cả mấy tay “bợm nhậu”), có lẽ ở đây có những quy định nghiêm khắc không viết ra giấy (còn gọi là luật bất thành văn) để bảo vệ loài chim? Cảm nhận được sự an toàn, chim càng ngày càng về “định cư” nhiều hơn nên còn được gọi là “thiên đường Hải âu” và cái vịnh hình vòng cung xinh xinh kia được gọi là “Vịnh Hải âu”. Về phía Tây Nam có một eo biển khá rộng với bãi cát vàng rực, sạch mịn, bờ dốc thoai thoải là bãi tắm an toàn lý tưởng nhất.


Tháng trước, uống cà phê với anh bạn tại Sân Vườn khách sạn Bình Minh – Phan Thiết, anh ấy hỏi:
- Ông đi Chùa Hang chưa?
- (Hăm hở trả lời) Rồi. Đẹp lắm.
- Ở đó có cái giếng tên là “giếng tiên”?
-
Đúng rồi, nước trong và mát ngọt.
- Tôi đố ông, vì sao nó có tên là giếng tiên?
Một thoáng bối rối,.. tịt, không trả lời được.
-
Vậy chứ ông nói tôi nghe vì sao tên là giếng tiên.
- Tôi cũng không biết luôn ! hà…hà..hà…

Trớt quớt !!! Đố mà không có đáp án.


Bây giờ thì tôi biết rồi. Chuyện xưa kể rằng, trên tiên giới ấy sau những ngày vui kết hoa đăng…, nhàm chán với khung cảnh nhà trời, các tiên nữ rủ nhau lén Vương mẫu nương nương trốn xuống hạ giới tìm chốn ăn chơi, vào một đêm trăng sáng, phát hiện bãi tắm Cà Dược tuyệt đẹp, thế là các nàng “sà” xuống tung tăng bơi lội, nô đùa, tắm gội (nghĩ cũng lạ, chỉ có ban đêm trăng sáng tiên nữ mới xuống dương trần tắm gội, không nghe nói tiên nữ tắm ban ngày). Sau đó các nàng tiên đến cái giếng dưới chân Chùa uống nước, xối nước ngọt, ca hát thâu đêm suốt sáng, còn để lại những dấu chân trên đá đến ngày nay, nên từ đó cái giếng kia mới có tên là Giếng Tiên. (thích quá, có mấy nàng chẳng thèm về trời nữa, ở lại hạ giới, học trường Hải Long. Cũng có mấy nàng dọc đường mê bắt bướm hái hoa, quên cả giờ giấc, về trễ, cổng trời đóng kín mít, phải quay lại trần gian, “đáp” trúng nước Mỹ và một số nước Châu Âu, gặp mấy tiên ông đẹp trai phong độ, ở lại luôn). Nghe nói, sau đó Vương mẫu nương nương phát hiện được, bực tức lắm, quở trách: sao các ngươi đi mà không rủ ta lén Ngọc Hoàng đi với ? vì cái tội không rủ rê mà bị phạt 7 ngày liên tục không được ca múa, kể cả hát karaoke. Suốt một tuần, không đờn ca xướng hát, Điện Linh Tiêu vắng như Chùa Bà Đanh.


Còn ngày nay, vì trần gian “láo nháo” quá, các tiên nữ phải hóa thân thành “tiên bà bà”, sau khi múa hát đủ thứ nhịp điệu tại thiên đình Chùa Cú, đến khi không còn điệu nào nữa để múa, chưa đã, bay cái vù đến Chùa Hang, với đôi chân trần lướt nhẹ trên bãi sỏi tùm lum màu; lung linh vô cùng, huyền ảo vô cùng, đẹp vô bờ bến; rồi tung tăng, rồi tắm, rồi gội, rồi bơi lội, rồi nô đùa, rồi đến giếng tiên uống nước, ca hát…Còn các tiên ông thì sao? Cứ ngồi trên vỉa đá mép biển, mà phải ngồi “bệch” theo kiểu của bạn Hoàng Gia Kế mới độc đáo, bên bầu rượu đào, vừa nhâm nhi với cá khô trộn rau sống, xoài sống, vừa canh chừng đồ đạc kẻo mấy chàng….dấu mất xiêm y, các tiên bà bà lấy gì mà bay về…nhà (ngày xưa gọi là bay về trời).

Xa xa là bãi tắm của các nàng tiên
(còn nữa)


Thứ Ba, 21 tháng 9, 2010

NHỮNG CHUYẾN ĐI - Chùa Hang - Tập 3


Theo tài liệu, Chùa do thiền sư Bảo Tạng thuộc đời thứ 40 thiền phái Lâm Tế khai lập vào khoảng từ nửa đầu thế kỷ thứ XIX (1835 – 1836), ban đầu chỉ là một thảo am nhỏ, vách ván, lợp lá. Qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo; đến thời Thiệu Trị, Chùa được xây dựng lớn cả về không gian lẫn nghệ thuật; các đời chủ trì kế tục đều có duy tu, bảo dưỡng, mở rộng, kiến tạo thêm nhiều công trình mới. Hiện nay toàn bộ ngôi Chùa có diện tích 1.200 m2, bao gồm: khu chánh điện, khu tam quan ngoại, gác chuông, lầu trống, nhà thiền, từ đường… và rất nhiều hang động ăn sâu vào núi, mỗi hang đều thờ Phật, hoặc Bồ Tát... Ta bắt đầu khám phá, chiêm ngắm một vài khu vực trong quần thể của Chùa:

Qua cổng Tam Quan và một khoảng sân rộng là ngôi chùa chính, tương đối lớn được xây dựng quy mô, đây là chính điện thờ Phật tổ, ngày đêm khói hương nghi ngút, vào những ngày lễ, tết khách thập phương từ mọi miền đất nước đến chiêm bái, lễ Phật, người ra, kẻ vào nườm nượp; nội thất được trang trí rất đẹp với nhiều câu liễn, câu đối hoành phi có niên đại cổ được khảm bằng xà cừ, chạm khắc trên gỗ, ghép mực sành…Ra khỏi gian chính điện, đi theo hướng tay phải sẽ thấy tượng Quan Thế Âm Bồ Tát đứng trên ngọn núi có tên là Linh Thứu, uy nghi, tự tại giữa không gian mênh mông nhìn ra biển khơi; tiếp tục xuống cấp, lên cấp, quanh co, khúc khuỷu theo hướng ngược kim đồng hồ sẽ tới một khe đá, ở đây có những tảng đá cao, to đứng sát vào nhau, chừa ra một khoảng khe nhỏ vừa đủ cho từng người đi qua, gió từ khe núi thổi ra mát rười rượi, khác với chân núi nóng bao nhiêu thì ở đây mát bấy nhiêu, cái mát dễ chịu vô cùng, tôi dám bảo đảm chưa có kỹ sư nào trên thế giới có thể chế ra được cái máy làm mát như cái mát ở đây; đi cả buổi thấy cũng hơi hơi mệt, phải chi chỗ này ít người qua lại, ngã mình xuống đánh một giấc “thăm thẳm chiều trôi” thì đã đời biết mấy. (ông bà ta gọi là đánh một giấc thẳng cẳng).

Khe núi - gió mát rười rượi, tha hồ nghĩ chân

Cũng một cái Chùa, người thì nói là Chùa Hang, người thì nói là Chùa Cổ Thạch không biết cái tên nào là đúng. Viết đến đây làm tôi lại nhớ đến câu chuyện có mấy em nhỏ thấy chiếc xe tăng đi qua, một em nói: Ô…chiếc xe tăng, em kia nói: sai rồi, xe bọc thép, em khác cãi lại: xe tàu bò, có một em im lặng từ nãy đến giờ lên tiếng: không đúng, đó là xe thiết giáp. Cứ thế cãi nhau um sùm củ tỏi. Cuối cùng thống nhất là “thiết vận xa”. Như thế này tên là Chùa Hang thì dễ hiểu rồi vì nó có nhiều cái hang, còn Chùa Cổ Thạch là vì sao ? Phải tìm hiểu cho ra lẽ mới được.

Gặp một người trung niên, có lẽ là dân địa phương, mặt mày chân tay đen như cột nhà cháy, có bộ ria mép dáng dấp “đại ca”.
- Chào anh, anh cho tôi hỏi cái tên Chùa Cổ Thạch có nghĩa là gì ?
- Cái anh này hỏi mới lạ, thì Chùa Cổ Thạch tức là Chùa Cổ Thạch chứ gì. Thế mà cũng hỏi !!!
(Hình như hai vợ chồng đang gây lộn, dịp may hiếm có để trút giận).

Mà nghĩ cũng đúng, tên riêng mà, Chùa Cổ Thạch là Chùa Cổ Thạch chứ sao nữa; cũng như tên của ông Hoàng Gia Kế, Mai Thân, Mai Chí, Trần Vĩnh Lại, Võ Văn Hào, Phạm Đình Nhân có nghĩa là mấy ông đó chớ, chẳng lẽ là mấy ông khác được sao ?

Chưa thỏa mãn, đi hỏi tiếp. Gặp một lão “tiền bối”, râu tóc bạc phơ, da dẻ hồng hào, lúc nào cũng giữ nụ cười trên môi.
- Thưa Bác, cho cháu hỏi tên Chùa Cổ thạch có nghĩa là gì thế Bác ?
- À! Hình như: thạch là đá, cổ là cũ, chùa là chùa. Chùa Cổ Thạch có nghĩa là chùa bằng đá cũ.


Lạ nhỉ ? Đá cũng có đá mới đá cũ nữa sao ? mà “hình như” thì chưa chắc lắm. Lại phải tiếp tục đi hỏi. Gặp một Hòa thượng, mặc áo chùng nâu, tay cầm xâu chuỗi, phốp pháp to tê như ông Lỗ Trí Thâm trong 108 anh hùng Lương Sơn Bạc nhưng nét mặt rất hiền từ, đôi mắt rất từ bi.
- Bạch thầy, con là khách du lịch từ xa đến, muốn hỏi Thầy một việc?
- Thí chủ có điều chi muốn hỏi ?
- Dạ thưa Thầy, tên Chùa Cổ Thạch có nghĩa là gì ạ ?
- Theo tài liệu, sách vở còn lưu lại trong Chùa, Lão nạp được biết Chùa Cổ Thạch có nghĩa là chùa cổ, chùa xưa được xây dựng bằng đá.


À ra thế! Chùa cũ chứ không phải đá cũ; chỉ cần đọc Chùa Cổ…(nghĩ một chút) rồi mới tới Thạch thì có nghĩa là “Chùa xưa được xây dựng bằng đá” là đúng; còn nếu đọc Chùa…(nghĩ một chút) rồi mới tới Cổ Thạch thì có nghĩa “chùa đá cũ” là trật lất. Còn nếu đọc ba chữ Chùa Cổ Thạch liền một hơi không nghĩ là muốn hiểu sao thì hiểu. Rắc rối nhỉ! Phức tạp nhỉ! Thôi thì gọi quách là Chùa Hang cho nó chắc ăn.


Nói đến việc đọc cho đúng làm tôi nhớ đến hồi đó, mỗi lần muốn thông báo điều gì là có cái ông alô, dùng miếng tôn kẽm cuốn thành cái loa để đi alô alô (bấy giờ chưa có phương tiện thông tin hiện đại như bây giờ). Một hôm, ông vừa cầm cái loa, vừa cầm tờ giấy đi alô:
- Alô alô! Sáng mai là ngày………, các anh chị thanh niên nam nữ phải tham dự đầy đủ, khi đi trang phục gọn gàng, lịch sự: Nam bỏ áo trong quần Nữ…(đến đây hết trang giấy, lật qua mặt sau đọc tiếp) áo dài. Đọc mãi cũng không nhớ nỗi 2 chữ của trang sau. Cứ thế, từ đầu làng đến cuối xóm: …Nam bỏ áo trong quần Nữ…áo dài.

Đường đi quanh co khúc khuỷu

Lại tiếp tục quanh co, khúc khuỷu, lên xuống; hai bên lối đi dọc theo vách núi là những hình tượng được chạm khắc trên đá miêu tả cuộc đời Đức Phật và các Chư vị Bồ tát, cũng có cả thầy trò Tam Tạng đi Tây thiên thỉnh kinh. Xen lẫn giữa những núi đá san sát nhau là những hang động; hang thờ Tổ khai lập Cổ Thạch Tự Bảo Tạng có tượng nhà sư và nhiều bài vị của các nhà sư khác có công lao xây dựng chùa đã viên tịch; hang thờ Phật Chuẩn Đề có tượng Phật 8 tay và và nhiều tượng cổ; Hang Tam bảo thờ 23 pho tượng Phật cổ với nhiều kích thước và niên đại khác nhau; các hang động khác cũng được kiến tạo phù hợp với điều kiện thờ phụng. Tiếp tục bước lên nhiều tam cấp sẽ gặp một hang động, muốn vào hang lại phải tiếp tục bước thêm mấy tam cấp nữa, hang này nằm ở độ cao nhất trong quần thể các hang; cửa hang rất hẹp, phải khom người xuống mới “chui” vào được (coi chừng đụng đầu), nhiều người vào đây đã bị đụng đầu rồi, tôi vô ý cũng bị cái “cốp”, may mắn là nhẹ nên không “xuất hiện cục u”; cho dù người ta có muốn cửa hang rộng thêm nhưng không được vì bị chắn bởi hai tảng đá vô cùng lớn, mà đục đẽo thì lại làm mất vẻ tự nhiên, hoang sơ; thôi có sao thì để vậy. Tuy cửa vào hang nhỏ, hẹp nhưng trong lòng hang vô cùng rộng, thờ rất nhiều Phật, Bồ tát mà tôi không biết hết.

Có đi vào từng hang đá mới cảm nhận hết sự trang nghiêm của những nơi thờ kính, mới thấy hết vẻ đẹp tự nhiên, huyền bí một cách lạ lùng. Tiếp tục đi về hướng mặt trời lặn là gác chuông, gian để trống, trên đường đi sẽ gặp 2 khối đá ước chừng nặng hàng chục tấn, gần như vuông vức, chồng lên nhau rất sít sao, sắc sảo, đẹp mắt tưởng như có bàn tay của những nghệ nhân điêu luyện đục, đẽo, ráp, nối (tôi không biết phải diễn tả làm sao cho các bạn hình dung được nét độc đáo của nó).


Trong khu vực này, phía dưới chân Chùa có một cái giếng, tên là Giếng Tiên, nước trong vắt, ngọt lịm, mát lạnh, uống vào thấy trong người bớt mệt mỏi, nghe nói giếng không bao giờ hết nước kể cả những năm hạn hán, nguyên cả khu vực cây cối rũ lá vì thiếu nước nhưng giếng tiên thì không cạn chút nào…Và còn rất nhiều những cảnh quan, những hang động, những điều kỳ bí khác nữa mà miêu tả mãi đến ngày mai có lẽ cũng chưa hết. Cứ đi, rồi nghĩ mệt, rồi khám phá, rồi chiêm ngưỡng, rồi lại tiếp tục đi, loanh quanh, lên dốc, xuống dốc …lau mồ hôi, mệt quá! Nghỉ một chút, lại tiếp tục đi cho đến khi hết đi nỗi thì thôi! Còn nhớ, cách đây mấy năm, lần đầu đi Chùa Hang, lên xuống dốc rất vất vả vì chưa có nhiều tam cấp được xây như bây giờ, bạn Mai Chí với đôi chân đau buốt, ráng chịu đựng, cà nhắc, cà nhắc dẫn Thầy Cương và bạn bè thưởng ngoạn cảnh Chùa, giờ nhắc lại thấy vẫn còn thương lắm bạn Mai Chí ơi.
(còn nữa)

Chủ Nhật, 12 tháng 9, 2010

NHỮNG CHUYẾN ĐI - Chùa Hang - Tập 2


Tới ngã tư cuối cùng, tôi tự đặt tên là ngã tư Chùa. Đi thẳng ra hướng biển: san sát nhà hàng ăn uống, phòng nghỉ; rẽ phải: bãi đậu xe, cũng nhà hàng, nhà nghỉ. Nhìn sang hướng tay trái, sau hai dãy những gian hàng bán đồ lưu niệm dài hun hút, thấp lụp xụp là cả một quần thể kiến trúc: Chùa, Am, Điện, Cốc…liên hoàn với nhau trên độ cao 64 mét ở một vùng núi đá rộng hơn 40.000 m2, gồm hàng ngàn, hàng vạn tảng đá lớn nhỏ, có những tảng nguyên khối như những ngôi nhà, có những tảng hình thù kỳ lạ mang dáng dấp kỳ bí chứa đựng vẻ đẹp nguyên sơ độc đáo; thiên nhiên đã xếp đặt một cách khéo léo những tảng đá với nhau thành những cái hang: hang to, hang nhỏ; hang lớn, hang bé; hang sâu, hang cạn; hang thấp, hang cao, hang rộng, hang hẹp…ôi thì đủ loại, đủ vẻ, đủ hình dáng; có những hang vào ra thoải mái, cũng có những hang phải khom lưng mới vào được, vô ý đứng thẳng người lên là nghe cái cốp xuất hiện cục u trên đầu ngay. Nhà báo Lưu Trọng Văn, con trai của thi sỹ Con nai vàng ngơ ngác Lưu Trọng Lư khi đến Núi Cấm (An Giang) thấy nhiều hang quá gọi là “một kho hang”; còn tôi đến Chùa Cổ Thạch thấy nhiều hang quá gọi là “một trời hang” cho nó khỏi đụng hàng.


Một góc quần thể của Chùa Cổ Thạch


Xuống xe, lội bộ thôi, chỉ vài trăm mét nữa là đến đích rồi. Trời nắng chang chang, gió biển thổi vào cũng không làm dịu đi cái nóng bức của những ngày cuối Hè này; ở đây cây cối lưa thưa, thấp lè tè, mọc trên cát bạc màu đầy ắp hơi mặn của nước biển, quằn quại chống chọi với khắc nghiệt của thiên nhiên để tồn tại. Rẽ vào gian hàng bên đường mua mấy cái nón đội cho nó đỡ nắng, nón được kết bằng những sợi lá y như sợi sóng lá (lá buôn), rộng vành; người đan nón cố ý để chung quanh vành những cọng lá te tua cho nó phong trần. Mỗi người một cái, cũng ra dáng khách du lịch “ta ba lô” đấy chứ.

Theo hướng Chùa nhanh chân thẳng tiến vì nắng quá, dốc thoai thoải, vào tới những gian hàng bán đồ lưu niệm thì không bị nắng mà lại nóng do những gian hàng sát nhau, che cả gió, chỉ chừa lối đi; đồ lưu niệm, đồ trang sức được chế tác bằng san hô, ốc biển và đá cổ thạch như cối giã, ấm trà, bình cắm hoa, chuông gió, vòng đeo tay, xâu chuỗi…đặc biệt là bán cả tượng, cả hình Phật, hình Chúa: Phật tổ Như Lai, Phật bà Quan âm, Phật Thích ca mâu ni, Phật Di lặc…hình Chúa Giêsu, Đức mẹ Maria, các Thánh…Đúng là hòa hợp dân tộc, hòa hợp tôn giáo. Ở một số nước Tây Á, Bắc Á hễ đạo Hồi là đạo Hồi, Đạo Hindu là đạo Hindu, đạo Do Thái là đạo Do Thái, lộn xộn là “bụp” liền. Ở Việt Nam ta “Dao nào cũng là Dao”. Chẳng thế mà Lễ Phật Đản tại Chùa cũng có Linh mục Thiên Chúa Giáo, Thầy cả Hồi Giáo tham dự; Lễ Giáng sinh tại nhà thờ cũng có các chức sắc tôn giáo khác đến viếng thăm là gì.

Điểm đến đầu tiên của Chùa là cái cầu nhỏ xinh xinh bắc qua một khe suối cũng xinh xinh, mùa này khô nước. Từ đây bắt đầu bước vào đất Phật, không khí trở nên mát dịu lạ thường, ta sẽ gặp đôi rồng uốn lượn hai bên đường đi như đón chào những ai có duyên đến viếng Chùa, bên phải chiếc cầu là bức tượng hình Hổ ngồi, đối xứng là tượng Voi nằm được tạc bằng đá với kỹ thuật tinh vi, có cái đầu, vòi, ngà láng bóng vì nhiều người tới đây việc đầu tiên là rờ, vuốt một cái. Ngước lên trên cao, lồ lộ hiện ra cái cổng Chùa rất lớn (gồm một cửa chính, hai cửa phụ) cũng được xây bằng đá mang dáng dấp cổ xưa mà ta thường thấy ở các ngôi Chùa, đình làng, đền thờ…trong ti vi; cổng được trang trí rất đẹp, họa tiết Long Lân Quy Phụng, khắc nhiều chữ Tàu, có 3 chữ rất lớn, có người dịch là Cổng Tam Quan, tôi không biết chữ Hán nên dịch là Cổ Thạch Tự. Muốn đến cổng Chùa còn phải leo 36 bậc thang cũng được xây bằng đá tương đối dốc. Lên tới bậc cuối cùng ta sẽ gặp một kiệt tác của thiên nhiên đó là 3 phiến đá xếp thành hàng ngang tạo dáng con cá Kình; theo Kinh Phật gọi là con “Ma Kiệt” một loài được xem là hóa thân từ Phật Bà Quan Thế Âm Bồ Tát để giúp đỡ ngư dân khi gặp nạn ngoài biển khơi.

Cổng Tam Quan – Chùa Cổ Thạch
Nhìn lưng áo các bạn ướt đẫm mồ hôi; nhìn bao quát cảnh Chùa từ độ cao: nào am, nào cốc, nào đá, nào núi, nào hang trùng trùng điệp điệp xen kẽ lẫn nhau, chồng chất lên nhau, tôi nhớ đến Bà Huyện Thanh Quan lúc đến Đèo Ngang:
Bước đến đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá lá chen hoa

Còn tôi thì:
Bước đến Chùa Hang nắng quá trời
Chùa chiền chen đá cát chen hang
(Tôi đang tập làm thơ, nhờ Thùy chỉnh sửa để đạt trình độ thơ con cóc).
(còn nữa)

Thứ Sáu, 3 tháng 9, 2010

NHỮNG CHUYẾN ĐI - Chùa Hang - Tập 1

Cô Hồng, các anh chị và các bạn thân mến!
Sau loạt bài Hàm Thuận Nam, theo đề nghị của Cô Hồng, bạn Hoàng Gia Kế và một số bạn muốn tiếp tục đọc thêm những bài viết của tôi, lần này xin được đóng góp với trang blog loạt bài có chủ đề NHỮNG CHUYẾN ĐI
Trong chúng ta, ai ai cũng có những chuyến đi: đi tham quan, đi du lịch, đi tắm biển, đi leo núi…cũng có cả đi lang thang, đi “loanh quanh cho đời mỏi mệt” nữa. Còn tôi sẽ cùng các bạn đi thăm thầy, đi thăm cô, đi thăm bạn bè, đi thăm những danh lam thắng cảnh của quê hương đất nước. Bây giờ là những ngày cuối của tháng 7 âm lịch, âm hưởng mùa đại lễ Vu Lan vẫn còn, ai cũng nghĩ đến việc báo hiếu và lễ phật cầu kinh, ta sẽ khởi hành bằng chuyến đi thăm chùa.

ĐI CHÙA HANG – Tập 1
Đi Chùa Hang (còn gọi là Chùa Cổ Thạch) có 2 cách, cách thứ nhất từ nhà Diệu Hoàng (Phan Rí) đi thẳng ra phía biển (hướng Đông) gặp ngã ba, rẽ trái, rồi lòng vòng lèo vèo, rồi lại lèo vèo lòng vòng vài ba bận là đến Chùa Hang. Cách thứ hai từ nhà Thầy Cương (Hòa Đa) đi thẳng hướng Bắc cũng gặp ngã ba, rồi quẹo, rồi cua, rồi lại cua, rồi lại quẹo cứ thế ít lần thể nào cũng đến Chùa Hang; nếu chưa tới thì hỏi người đi đường là biết ngay.
Ta thống nhất xuất phát từ nhà Thầy Cương. Trên Quốc lộ 1A, theo hướng Bắc “trực chỉ”, đến gần ngã ba Long Hương, bên đường sẽ thấy nhiều trụ “chỉ thiên” (hướng thẳng lên trời) cao chót vót, có cái chong chóng 3 cánh hướng ra biển quay tít thò lò trên những đồi cát lồng lộng gió, đó là những chong chóng sản xuất ra điện, còn gọi là điện gió, nói cho có vẻ khoa học kỹ thuật là “phong điện”. Tôi đã gặp nhiều chuyến xe có cái đầu như đầu xe công-tơ-nơ, ta cứ gọi là xe đầu kéo cho nó gọn, kéo từng cái cánh quạt từ hướng Sài Gòn ra, mỗi xe chỉ kéo được 1 cánh, lúc đầu tôi tưởng là cánh máy bay, mừng cho đất nước đã ráp được phi cơ, nhưng sao nó dài thế, hỏi ra mới biết đó là cánh quạt của “phong điện”
Mới năm ngoái đây thôi, có anh bạn ở Phan Thiết với nét mặt nghiêm trang nói với tôi, Tỉnh mình có “phong điện” rồi đó, tôi hơi bàng hoàng, cứ tưởng là căn bệnh hiểm nghèo của thế kỷ mới xuất hiện như bệnh Aids, kiểu này lơ tơ mơ nhân loại đi đến chổ “tuyệt chủng” mất thôi, bởi từ thủa cha sinh mẹ đẻ đến giờ chỉ nghe nói: phong cùi, phong thấp, phong hàn, phong tình, phong dời, phong đòn gánh…bây giờ lại có cả phong điện nữa?
- Thôi ông ơi! cái tầm hiểu biết của ông hạn hẹp quá, phong đây có nghĩa là gió, điện đây có nghĩa là…là…điện, phong điện là điện gió, nói đầy đủ từ ngữ là điện sản xuất ra từ gió, nghe ba chớp ba nháng tiếng được tiếng mất mà gọi là “phải gió hay là dừng gió” là hỏng tuốt luốt.
- Ối giời, thì nói toạc móng heo ra (Rạng, Mũi Né ta gọi là nói tẹc ra) là điện gió đi cho nó dễ hiểu, còn chơi cả chữ hán, chữ nôm; phong với chả gió có trời mà biết.

Theo báo chí, Tuy Phong Bình Thuận là khu vực đầu tiên ở Việt Nam lắp đặt điện gió, đã có 12 dự án đã và sẽ thi công, mỗi trụ cao 85 m, đường kính cánh quạt 77 m, trọng lượng trụ 165 tấn, trọng lượng tua-bin gần 90 tấn, thiết bị do nước Đức sản xuất, dự kiến trong 10 năm tới bình quân mỗi năm sản xuất ra được 3.000 MW điện. Thôi ta tạm gác cái chuyện phong điện ở đây đi, như bạn Thanh Vân thường nói (nguyên văn) “có gì chuyện đó tính sau” bởi ta đang đi Chùa Hang mà.

Phong điện – Tuy Phong

Tới ngã ba Long Hương, rẽ tay phải trên con đường trải nhựa phẳng lì, rộng rãi, ban đêm điện đóm sáng choang; đây là trung tâm hành chính của huyện lỵ Tuy Phong, các cơ quan thấp thoáng sau những hàng cây rất đẹp. Tiếp tục, gặp một ngã tư, qua luôn; hai bên đường nhà cửa san sát, buôn bán sầm uất, nhạc xập xình từ các quán cà phê phát ra inh ỏi, xe cộ tấp nập chạy tới chạy lui bát nháo như chứng minh sự phồn thịnh của một thị trấn lẻ loi cuối cùng nằm về hướng bắc của địa giới Bình Thuận. Lại gặp một ngã ba nữa, qua luôn. Tới một ngã tư, quẹo phải, đường đi bây giờ nhỏ hẹp hơn nhiều, dân cư cũng sinh sống theo hai bên đường, chủ yếu làm nghề khai thác hải sản mà ta thường gọi là làm biển. Lại tiếp tục đi cho đủ gần 10 cây số tính từ ngã ba Long Hương ta sẽ gặp con đường trải nhựa mới toanh, rộng thênh thang; có cái cổng rất lớn nối từ lề đường bên này sang lề đường bên kia; ở mức thấp ngang tầm xe có cái thanh ba-ri-e (tôi không biết tiếng Việt gọi là gì) chận các xe thu tiền lộ phí. Hễ có cái vé là cái thanh ba-ri-e bật lên cho xe qua rồi sập xuống ngay. Từ đây tới Chùa chỉ còn chưa đầy một cây số, nếu nhìn kỹ sẽ thấy thấp thoáng khu vực của Chùa.

Có anh bạn ở huyện Tuy Phong trước đây làm việc cùng ngành với tôi ví von câu chuyện sau (không biết có thật hay phịa ra) là có một đoàn khách nước ngoài, hình như là Thụy Sỹ, trên đường từ Phan Thiết ra tham quan Chùa Hang, khi đến đây, thấy cái thanh ba-ri-e giật mình quay sang hỏi cô phiên dịch “Ở đây có chiến sự hả?”, cô phiên dịch trả lời “No! chiến tranh ở vùng này đã lui về quá khứ rồi; đây là cái để báo cho những ai muốn đi qua phải mua cái vé lộ phí”. Nếu ai cũng hiểu theo kiểu cái ông người nước ngoài kia thì có lẽ đất nước mình chỗ nào cũng có chiến sự cả !!!
Nghĩ cũng lạ, đi Chùa Cú cũng trên con đường rộng thênh thang dài hàng bốn, năm cây số ta thoải mái phóng vù vù mà có phải mua vé đâu, đây chỉ có mấy trăm mét ? Mà thôi, thắc mắc làm gì cho nó rối tung cái đầu, mua cái vé mà được đi trên con đường êm như ru là sung sướng lắm rồi.
(Còn nữa)

Thứ Hai, 2 tháng 8, 2010

Hàm Thuận Nam - Hồi cuối

Đến nhà Lành

Tham quan Chùa Cú mà không đến “biệt thự” của Lành là điều vô cùng thiếu sót (thuật ngữ trong tường thuật bóng đá gọi là sai lầm chết người), cái tên “biệt thự” do Thanh Vân đặt cho; chỉ 4 cây số từ chân núi Chùa Cú trên con đường trải nhựa láng e gọi là Quốc lộ 1A về hướng Phan Thiết rồi quẹo vào con hẻm 250m (xin lỗi nhé) rãi rác phân bò, sỏi đá lởm chởm mà chỉ có xe của Mai Chí, xe của Diệu Hoàng mới đủ can đảm vào. “Biệt thự” ấy cũng tọa lạc trên một mảnh vườn rộng 5 ngàn mét vuông, nói là mảnh vườn cho “oai” chứ thực sự chỉ có vài cây xoài (chưa có trái), vài cây ổi, vài cây đu đủ, vài bụi chuối và vài trăm trụ thanh long; hai bên nhà có hai cây khế, một ngọt một chua mà năm nào cũng thế, từng đàn chim Két lũ lượt kéo về ăn nhưng chưa một lần trả vàng.

“Biệt thự” được thiết kế bởi một kỹ sư xây dựng “tay ngang” (Nhân), vừa lợp tôn vừa lợp ngói, nền vừa lót gạch vừa tráng xi măng, cửa thì đủ loại; Gỗ, nhôm, mũ…; cũng có một “dàn” karaoke lâu lâu trở chứng “cà nghẹt cà nghẹt” để cho các bạn ca hét om sòm cho vui cửa vui biệt thự.

Nơi ấy là giang sơn của hai vợ chồng. Người chồng vừa đi làm việc vừa kiêm nông dân, người vợ vừa làm thợ may vừa kiêm đi bán thanh long; có hai người con, một gái một trai; nuôi thêm một con chó, một con mèo, một con chim sáo hót líu lo cả ngày. Tuy cuộc sống giản dị, bình lặng, “cơ hàn” nhưng lại được các Thầy, các anh chị, bạn bè xa gần thỉnh thoảng đến thăm chơi. Ngày qua tháng lại, một hôm nhận được cuộc điện thoại của bạn Hoàng Gia Kế từ nửa vòng trái đất gọi về, có một trang blog cựu học sinh Hải Long Phan Bội Châu, người vợ có thêm niềm vui gặp gỡ bạn bè hàng ngày trong “thế giới ảo mà thật” ấy và người chồng tự nhiên trở thành thư ký riêng của vợ, thỉnh thoảng được vợ nhờ gỏ gỏ vào cái máy vi tính,

Rồi một hôm, nghe tin bạn đến nhà chơi, người vợ rất mừng, dọn dẹp nhà cửa đón tiếp bạn bè mà nội dung cuộc đón tiếp đã được bạn Thanh Vân “tường thuật trực tiếp” đăng trên blog; mấy ngày sau người vợ vẫn còn vui và hình như mãi đến hôm nay vẫn còn vui.

Viết đến đây, tổng biên tập kiêm kiểm duyệt (Lành) nói dài quá, thôi đành tạm dừng. Một hôm nào đó, bỏ lại sau lưng những bộn bề của cuộc sống, từ nước ngoài trở về, từ Sài Gòn ra, từ Mũi Né, Phan Rí, Phan Thiết vào ngao du một chuyến Hàm Thuận Nam, cũng nên đi lắm chứ !!! Nếu các bạn tận mắt không thấy hết những gì như mình đã tưởng tượng thì cũng đừng lấy làm ngạc nhiên vì tôi viết theo “kiểu Úc”. Cám ơn các bạn đã phải cố gắng hết mình, chống chọi với từng cơn ngủ gật để đọc hết 5 hồi bài viết “Hàm Thuận Nam” của tôi.


Đoạn kết – Như một lời cám ơn

Các anh chị và các bạn thân mến!

Sau hôm anh Liễu, anh Thiện, các bạn: Thanh Vân, Hào, Kỳ, vợ chồng Bảy B, vợ chồng Thu và bạn Trần Vĩnh Lại từ Sài Gòn lần đầu tiên đến nhà. Lành nói với tôi: anh viết một bài cám ơn các bạn đăng trên blog, tôi cười đồng ý; ngoài ra email cho bạn Hoàng Gia Kế lỡ hứa viết một cái gì đó tham gia trang blog với các bạn. Mấy ngày liền nghĩ mãi mà chẳng ra.

Một hôm, mắc võng dưới cây khế bên hông nhà nghĩ trưa, nhìn lên những trái chín vàng, mọng nước đung đưa, chợt nhớ bài hát Quê hương (thơ Đỗ Trung Quân) - Quê hương là chùm khế ngọt - Nhà mình cũng có chùm khế ngọt - Ý tưởng chợt loé lên và bắt đầu loạt bài “Hàm Thuận Nam” hình thành mà các bạn vừa được xem.

Tôi xin phép được ví nhà mình như quê hương Hàm Thuận Nam, nơi ấy ghi dấu mọi thân thương mà các bạn vừa trải qua và để lại, nơi ấy ghi nhận tất cả những tình cảm mà các bạn đã dành cho.

Bài viết không ngoài mục đích như một lời cám ơn những ai đã và sẽ đến thăm gia đình tôi, cám ơn bạn Hoàng Gia Kế Thùy đã tạo mảnh đất mà tôi đã dùng để bày tỏ. Rất vui nếu như được các bạn đến chơi nữa và cũng mong mãi sẽ là bạn tốt của các bạn./.

Tháng 7/2010 – Phạm Đình Nhân

Thứ Hai, 26 tháng 7, 2010

Hàm Thuận Nam - Hồi 4 - Chùa Cú (tiếp theo)

Chùa được xây dựng theo lối kiến trúc cổ của Phật giáo Phương Đông, có nhiều cột, kèo, xuyên, trính; chạm trổ họa tiết tứ linh “long, lân, quy, phụng”; mái lợp ngói âm dương theo bảy góc uốn lượn hình rồng thể hiện sự thanh thoát trần gian, an hòa, trầm mặc; với bàn tay khéo léo của các nghệ nhân đã tạo ra một kiệt tác về kiến trúc cổ độc đáo của Phật giáo còn lưu lại đến ngày nay. Theo tài liệu, Chùa được hình thành vào khoảng năm 1878-1880 do Sư Tổ là Trần Hữu Đức, tỉnh Phú Yên đến thiền tu.

Bước vào cửa Chùa, giữa gian Chính điện là tượng Phật đồ sộ được đặt trên bể thờ tương đối cao trước một khoảng nền rộng nghi ngút khói hương, ta tiếp tục rẽ qua hướng tay mặt, một dãy nhà dài với nhiều bộ ván được kê ngay ngắn, sạch sẽ là nơi cho khách thập phương có nhu cầu nghĩ lại qua đêm; tiếp đến là dãy nhà ăn với bếp lò nấu bằng củi, bàn ăn cũng sạch sẽ, tươm tất. Ở đây lúc nào cũng đầy ắp gạo, muối, tương, chao do khách thập phương đưa đến cúng; ai thấy đói bụng cứ “vô tư” tự nấu mà ăn; bên cạnh đó là hai dòng suối nhỏ uốn quanh, nước trong vắt chảy ra từ lòng núi. Nghĩ một chút, nhấp thử một ngụm nước mới thấy thế nào là vị ngọt mát của hương sắc núi rừng.

Giỗ tổ khai sơn ở Chùa được tổ chức ngày mồng 5 tháng 10 âm lịch, vào ngày này thường thì khách ở xa như Sài Gòn và các tỉnh miền Đông, Miền Tây tới rất đông. Tôi nhớ vào năm 1986, (cách nay 24 năm) lần đầu tiên cùng mấy người đồng nghiệp lên Chùa vào ngày giỗ Tổ, người rất đông, cứ nghĩ thế nào cũng có đồ cúng thí nên không đem theo thức ăn, tình cảnh này coi chừng bị nhịn đói, chúng tôi bố trí mỗi người chen chân đứng trước mỗi am nhỏ, hễ đến giờ Ngọ cúng xong là nhanh tay vơ đại cái bánh ăn “cầm hơi”; thế mà không sao nhanh hơn người khác được; cả bọn đói meo kiếm gốc cây ngồi, chợt một người đồng nghiệp phát hiện có người quen vừa đi qua đem theo một cái cặp như cặp sách học sinh cấp 3, trong đó đựng quần áo để nghĩ qua đêm ở Chùa, anh ấy đến mượn cái cặp và kể “tình cảnh” của chúng tôi; một diệu kế được hình thành, người cho mượn cái cặp vào Chùa báo là có đoàn cán bộ Ủy ban hành chánh Quận lên thăm Chùa, còn chúng tôi chỉnh đốn “xiêm y”, mặt mày cố tươi tỉnh lên, tôi được phân công xách cái cặp y như là cán bộ thật. Chúng tôi được mời vào Chính Điện, tiếp đón ân cần, ăn một bữa cơm chay thỏa thích, sau đó nháy với nhau vội vàng cáo từ xuống núi ngay vì sợ bị phát hiện. Trên đường về mỗi người một câu cười quên cả mệt nhọc.

Vì sao Chùa lại có cái tên Linh Sơn Trường Thọ ? Tương truyền rằng Sư Tổ khai sinh ra Chùa là người thiền tu huyền bí, quanh năm chỉ ăn hoa quả, cây rừng để tu hành nơi chốn Cõi Phật, có tài bốc thuốc, chữa bệnh, cứu người. Vào thời Vua Tự Đức, Hoàng Thái Hậu tức là Bà Từ Cung (mẹ của Vua) bị bệnh nặng, các quan ngự y thuốc thang nhưng không khỏi (bó tay), Vua xuống chiếu cho tìm các danh y trong nước, Sư Tổ nghe tin đã cho các đệ tử đem linh dược quý về kinh tiến Vua, Thái Hậu khỏe hẳn; Vua Tự Đức ghi ơn bằng việc ban tặng cho ngôi Chùa cái tên quý giá “Linh Sơn Trường Thọ” từ đó.

Tiếp tục hành trình, sau khi qua một bãi đá gập gềnh là tới một hang động nằm gần ngang với mặt đất, ăn sâu xuống, nhìn vào tối đen như mực. Tôi đã từng xuống hang này một lát sau quen mắt mới thấy khung cảnh lờ mờ hiện ra, nhưng vội lên ngay vì khói hương đến ngộp thở, có điều lạ là gió trong lòng đất theo hang thổi ngược lên. Tương truyền, thưở xưa Sư tổ thiền tu trong hang này trước khi cất Chùa, hang sâu thẳm có nhiều mỏm đá hoa cương tuyệt đẹp, nhiều ngỏ ngách thông ra bờ biển cách đó hàng chục cây số, hàng trăm năm qua, địa chất thay đổi không còn thấy đường đi xuống sâu hơn, đây là điều bí ẩn chưa được khám phá. Lúc “còn trẻ hơn bây giờ”, vào những ngày giáp tết, tôi cũng thường lên núi tìm Hoa Lan, ở đây có một loại gọi là “Thạch lan” vì mọc trên đá, ạnh Thiện (Mũi Né) gọi là Lan đục bình vì củ của nó bằng ngón chân cái, hình thù như cái đục bình cắm hoa, bên nách củ đâm lên cái ngồng từ 3-5cm, rũ xuống một chùm hoa trắng rực rỡ, đài hoa điểm tím, đỏ trông rất huyền bí nhưng đầy vẻ đài các kiêu sa. Rừng núi mênh mông và bí hiểm, tôi đã từng phát hiện nhiều hang động, có hang lộ thiên đầy Dơi, nhiều hang nằm chìm dưới đất nhìn vào tối đen ẩm ướt. Cách chân núi khoảng ít cây số, có một xóm nhỏ người Chàm (mặc dù cả khu vực này không hề có dấu tích của người Chàm xưa). Tương truyền, lúc Vua Chàm thất trận mất nước đi qua vùng này, có chôn một kho báu trên núi, để lại một nhóm người canh giữ, qua hàng trăm năm, nhiều thế hệ đã qua đi, nơi chôn dấu thất truyền, không ai còn biết vị trí kho báu chỗ nào nữa.

Ra sau Chùa khoảng trăm mét, một kiệt tác có thể nói có một không hai ở vùng Đông Nam Á là pho tượng Thích Ca Mô Ni nhập Niết bàn, nằm nghiêng, gối đầu lên tay, dài 49 mét, cao 11 mét, lưng tựa vào vách núi, mặt hướng ra biển Đông (do kiến trúc sư Dương Đình Ý kiến tạo, xây dựng vào năm 1960). Đây là công trình đồ sộ, bao dung nơi chốn sơn lâm, tịnh mịch, an cư, tượng trưng “đủ hình tứ lục và bảy chúng Phật tử” theo triết lý đạo Phật.



Một kiệt tác khác cũng rất nổi tiếng là cụm tượng Tam Thế Phật độc đáo theo lối kiến trúc kỹ xảo gồm tượng A-di-đà cao 7m, độ lượng, bao dung, ưu ái trần gian; tượng Quan Âm và Thế Chí cao 6m được kiến tạo bằng đá hoa cương biểu tượng của lòng từ bi, hướng thiện, cầu siêu…cách khu vực này 100m là tượng Phật Bà…



Ta cứ tưởng tượng, vào một đêm rằm tháng giêng, khi khí trời còn se lạnh của những ngày sau tết, đem theo cái đàn guitar, tụ tập ở khoảnh đất nơi rừng cây trước tượng Phật nằm, kiếm ít que củi khô, nhóm thành bếp lửa, vừa nấu nước vừa sưởi ấm (như các anh chàng cao bồi trong những đêm lạnh giá nơi hoang mạc vùng viễn tây Hoa Kỳ), pha 1 ca cà phê, 1 ấm trà, vừa thổi vừa nhắm nháp trong cái lạnh của núi rừng nơi độ cao khi màn đêm buông xuống, không gian tối om, chỉ còn lập lòe bếp lửa, ngon đến kỳ lạ (nhà hàng 10 sao chưa chắc được ngon đến thế); phím đàn được ngân lên, khe khẻ hát cho nhau nghe, tuyệt vời không thể nào diễn tả nỗi. Vài tiếng đồng hồ sau, một vầng sáng của ánh trăng từ từ xuất hiện nơi rừng cây sau bức tượng Phật nằm, lung linh, huyền ảo; con người, cảnh vật và khí thiêng của chốn từ bi như hòa quyện vào nhau làm cho ta quên đi thế tục, bước vào chốn thâm sâu nào đó…Càng về khuya, trăng càng sáng, không gian càng tịch mịch, linh thiêng, khí trời càng lạnh, cứ quanh bếp lửa mà ngủ.

Khi những tia sáng đầu tiên trong ngày lóe lên, khí lạnh từ trong đá bốc ra tạo thành những đám mây lơ lửng dưới chân ta giống như đang ở chốn thiên đình, lúc này các bạn nữ học sinh Hải Long mà làm tiên nữ múa hát thì không thể tưởng tượng nỗi đẹp đến mức độ nào. Nếu thế, tôi đề cử anh Liễu đóng vai Ngọc Hoàng, còn ai làm Hoàng Hậu, Hằng Nga và các thiên tướng khác nhờ các bạn phân vai dùm (mời Thùy cùng tham gia).

Chùa Cú còn nhiều chi tiết rất hay trong từng gian thờ, từng pho tượng, từng cái am; nhiều thắng cảnh đẹp và nhiều điều huyền bí, nhiều bí mật tôi không viết hết ra đây, chờ các bạn đến chiêm ngưỡng và khám phá; Ta tạm biệt ở đây thôi. Lần này “hạ san” cũng theo kiểu Tề thiên “đằng vân” về cho nhanh, vào ca-bin của cáp treo thích thú ngắm nhìn những ngọn cây trôi qua dưới chân và để biết thế nào là “lơ lửng trên chín tầng mây”, chỉ cần 7 phút, có mặt tại chân núi, vào nhà hàng thủy tạ cáp treo, làm mấy món cho biết ẩm thực ở xứ này, cũng chẳng có gì đặc biệt ngoài món thịt gà nấu lá giang, nhưng không thể nào ngon bằng gà lá giang bạn Thanh Vân nấu tại nhà Lành chiêu đãi bạn Trần Vĩnh Lại và các bạn vừa rồi. Phải chi có món thịt Dông băm nhỏ xào lăn xúc với bánh tráng nướng thật vàng, nhai dòn tang mà có lần anh Hữu Khánh chiêu đãi tôi tại nhà hàng Gềnh Mũi Né thì tuyệt biết mấy.

(Mời các bạn xem tiếp hồi cuối: Đến nhà Lành vào kỳ tới)

Thứ Sáu, 23 tháng 7, 2010

Hàm Thuận Nam - Hồi 3 - Chùa Cú

Tọa lạc trên đỉnh núi với độ cao gần 700 mét so với mặt nước biển trong một không gian trầm mặc với khung cảnh hùng vỹ bao la nhưng đầy thơ mộng giữa rừng cây cổ thụ đại ngàn, xanh thẳm, bốn mùa sương phủ, khí hậu trong lành, mát mẻ; thảm thực vật rất phong phú, đa dạng có nhiều cây cỏ để làm thuốc; động vật hoang dã quý hiếm còn rất nhiều.

Tôi và các bạn làm một chuyến “cuốc bộ” lên núi đi, cho dù hiện nay đã có cáp treo, vì đi bộ sẽ được nhiều “công ích” hơn, giống như Thầy trò Tam Tạng chỉ cần “phi thân” cái vèo là tới Thiên Trúc ngay nhưng như thế ai mà chịu giao Kinh, phải bị hành hạ đến 81 cái nạn, bầm dập, trầy da tróc vảy thì Kinh mới có giá trị chớ. Nhắc đến Thầy trò Tam tạng (ti vi vừa chiếu xong), tôi lại nhớ đến câu chuyện vui: Sau khi đến Thiên Trúc, Phật tổ Như Lai phán –Ta ghi nhận toàn bộ công lao của các ngươi, sống đi chết lại 81 lần, coi như là sứ mạng đã hoàn thành, nay Ta giao Kinh cho các ngươi, nhớ là về phải truyền bá Kinh của Ta đến toàn thể đất nước Đại Đường –Vậy các ngươi có đem theo cái USB không, để Ta coppy cho –Tề Thiên đứng bên cạnh lầm bầm –Biết như thế này tui vào internet download cho nó nhanh, khỏi mất công vất vả bao nhiêu năm trời.

Từ chân núi, mỗi người kiếm một khúc cây làm gậy vừa đi vừa chống cho nó khỏe vì đường chỉ là những khoảng trống nhỏ ven theo vách đá và rừng cây, vô ý một chút dễ bị trượt chân nhất là những người lần đầu leo núi, sau hơn một tiếng đồng hồ chống chọi với gập gềnh, khúc khỷu, vòng vèo quanh co, trồi lên sụp xuống, vả mồ hôi, sôi nước mắt cuối cùng cũng đến chân dốc cao nhất có tên là Dốc Bằng Lăng, ở đây có vài vĩa đá lớn tương đối phẳng phiu để ta ngồi nghĩ, giải khát, lấy sức trước khi qua cửa ải gian nan cuối cùng đến “Đất Phật”. Tiếp tục hành trình, lúc này không nói là đi nữa mà lê từng bước cho đến khi hai tai lùng bùng, miệng khô đắng nghét xem như là thành công, đi thêm khoảng 100 mét đường tương đối bằng phẳng, ít dốc là tới cổng Chùa, nhìn lên đúng là cả một quần thể di tích đạo Phật lung linh trên lưng chừng núi, dưới là mây trôi lơ lửng, ẩn hiện sau những hàng cây cổ thụ phải 2 người giang tay ôm mới hết, chưa hết đâu lại phải tiếp tục leo thêm mấy chục cái tam cấp bằng đá nữa mới coi như là đến đích. Con đường tôi và các bạn vừa đi khởi đầu là con đường mòn ngắn nhất mà những Thầy tu trên Chùa và khách thập phương thường xuyên lên xuống, trước khi có cáp treo, thiện nam tín nữ gần xa đã đóng góp tiền bạc công sức để ghép những phiến đá thành những bậc thang nhưng không thể theo ý muốn mà dựa vào tự nhiên nên không theo thước tấc quy cụ nào cả, so ra chúng ta đi là dễ dàng hơn các năm trước nhiều. Tôi đã gặp từng đoàn người già trẻ trai gái rán sức vất vả để lên viếng cảnh Chùa, đốt hương lễ Phật; một cụ già nằm trên chiếc võng có 2 người khiêng, hỏi ra mới biết cụ đã 90 tuổi từ hàng trăm cây số đến đây mơ ước một lần duy nhất trong đời được đặt chân đến Chùa. Đúng là chỉ có niềm tin tâm linh mới tạo cho người ta có một sức mạnh vô hình to lớn như thế. Vì khách thập phương thường xuyên lên xuống Chùa nên ở đây tự hình thành một tốp người làm nghề khiêng, vác, gánh đồ đạc lên núi làm kế sinh nhai. Gần 10 năm nay, ở huyện năm nào cũng tổ chức Giải leo núi, vận động viên các tỉnh miền Nam đều dự thi. Tôi mà ở trong Ban tổ chức thì sẽ trao Huy chương vàng cho người gánh đồ đạc lên Chùa, vì có ngày phải đi đến 2, 3 chuyến, còn vận động viên mỗi năm chỉ có 1 lần.

Có cô bạn học từ Sài Gòn ra đố tôi: -Sau khi lên được tới Chùa, Nhân biết mình thấy gì? Tôi nghĩ đến cảnh hoành tráng của thiên nhiên, cảnh đồ sộ của Chùa,chưa kịp trả lời,cô ấy đáp luôn:" thấy mệt " !

(Còn nữa)

Thứ Tư, 21 tháng 7, 2010

Hàm Thuận Nam - Hồi 2 - Món ăn đặc trưng

Thay lời tựa: Tôi xuất thân mang bản chất nông dân thuần túy, lời văn mộc mạc, chân chất; nếu viết dở quá cũng xin khen một xíu cho ấm lòng …hì…hì…


Hồi 2 - Món ăn đặc trưng

Tôi không có ý định giới thiệu về những món ăn đặc sản của quê mình nhưng khi đọc bài Bánh hỏi lòng heo Phú Long của Thảo Chi (Bảy B) và những món ăn của Thanh Vân (Vân dễ thương): âm thầm nuốt nước miếng cái ực. Vả lại nói về biển mà không nhắc đến những món đặc trưng dễ làm mất đi cái hương vị của nó.

Hải sản ở đây cũng rất là phong phú, đa dạng: ngêu, sò, ốc hến, tôm, cua, cá, mực, ghẹ…ở Mũi Né có thứ gì ở đây có thứ nấy; ngư dân đánh bắt trong ngày, tươi xanh. Đặc biệt là cá Bò Hòm, một loại cá bằng bàn tay, hình khối tam giác, da cá dày cứng, thịt trắng và ngọt lịm như thịt gà ta thả vườn. Để có hương vị ngon của loại cá này, đầu tiên phải được hấp sơ, sau đó đưa lên lò than nướng liu riu cho đến khi bóc da ra, thịt có màu vàng sậm lại hơi nâu, tỏa ra mùi thơm rực làm cho vị giác, khứu giác của những người ngồi xung quanh phải hoạt động tối đa cũng là lúc có thể dọn ra để thưởng thức. Thịt cá phải được cuốn với bánh tráng mỏng, kèm theo rau sống, không thể thiếu rau thơm và những lát mỏng đậu bắp; nước chấm phải là nước mắm nhỉ cá cơm xuất xứ từ Mũi Né dằm với chính lá gan của cá mới trọn vẹn được hương vị của loại cá này (chứ nước mắm loại khác là hỏng bét).


Các bạn cứ hình dung, một buổi nào đó, trong cái mát dịu se se lạnh của biển cùng với bạn bè, người thân, gia đình bên đĩa cá Bò Hòm đang bốc khói (không cần phải vào nhà hàng sang trọng làm gì cho nó mất đi cái vẻ hoang sơ của vùng này, ngồi “chài bài” dưới nền gạch cũng được, cho nó thoải mái). Từng miếng thịt cá nóng hổi thơm phức được xé ra, cuốn với gia vị, chấm với nước mắm dằm gan cá, đưa vào miệng, nhai từ từ mới thấy hết vị đậm đà của cá pha lẫn một chút gì đó nồng nồng của rau thơm, chát chát dòn dòn của đậu bắp và đặc biệt là cái ngót ngót hơi đăng đắng của gan cá thấm dần từ lưỡi vào trong cơ thể mà vài ba ngày sau cái hương vị kia như còn đọng lại đâu đây.



Hình chỉ mang tính minh họa (tôi thấy báo chí bây giờ
thường viết câu này nên bắt chước)

Một món ăn khác đầy hương vị của biển, không cầu kỳ, mang tính dân dã, hoang sơ là món “Hàu”, một loại hải sản bám vào các bãi đá, giống như con sò nhưng xù xì, xấu xí mà thịt lại vô cùng ngon.

Buổi chiều, khi thủy triều xuống tới mức thấp nhất, lòi ra những vĩa đá ven bờ, cùng bạn bè tới đây; thoạt đầu mới nhìn cũng màu đen sạm như đá, nhưng chú ý mới thấy chúng bám đầy dọc theo những rìa đá. Thưởng thức theo “phong cách” sau đây mới là “kiểu Úc”: Dùng một khúc ngắn kim loại như cái búa đóng đinh chỉ của thợ mộc cũng được, khẻ gõ vào cái vỏ cho bể ra, trước mắt bạn hình thù như một cái phểu lộ ra trắng ngần, trong ấy thịt Hàu (trông giống như thịt con sò) bằng đầu ngón tay út, tươi ngon; chỉ cần nhỏ vào 2, 3 giọt chanh tươi cho thịt Hàu săn lại, rắc một xíu nuối tiêu, dùng cái muỗng cà phê múc lên, đưa vào miệng kèm theo một vài cọng rau răm, mắt lim dim, nhai từ từ sau đó thấm môi bằng một ngụm nhỏ rượu nấu bằng gạo nếp…vô cùng tuyệt; không tanh, vị ngon ngọt đặc biệt của món ăn này không thể nào diễn tả bằng lời, chỉ có ai đã từng ăn mới cảm nhận được cái tuyệt vời của nó.

Nếu ai không thích thưởng thức theo “kiểu Úc” thì mời thưởng thức theo phong cách của “ta”. Cứ đằm mình dưới biển cho đến lúc lạnh cóng, bụng cồn cào đói, lên bờ ngồi chung quanh nồi cháo Hàu nóng nghi ngút, cay xè, xì xụp húp cho đến vã mồ hôi, chảy nước mũi…mới thấy đã làm sao. Còn nhiều và rất nhiều những món ăn từ hải sản rất “độc chiêu” mà cách thưởng thức cũng như cách chế biến rất đặc trưng chỉ có ở Hàm Thuận Nam (xin “nổ” một chút cho nó khí thế). Tôi không kể về những món ăn nữa để các bạn tha hồ tưởng tượng cho nó thú vị.



Bãi đá ở Hàm Thuận Nam
(Hình này không biết tác giả là ai, tôi cóp-py từ trên in-tờ-nét)

Hồi 3 – Chùa Cú
Tạm biệt vùng biển, mời các bạn lên miền núi theo con đường mới được tráng nhựa mấy năm gần đây nhưng nhiều đoạn đã bị xuống cấp, ổ gà liên miên (có lẽ do xe chở khách du lịch dập dìu qua lại nhiều quá) để chiêm ngưỡng và hòa mình với cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ của một danh lam có cái tên là Chùa Núi hoặc là Chùa Cú cũng được; trong sách vở, giấy tờ có tên gọi là Linh Sơn Trường Thọ. Tôi thì thích gọi là Chùa Cú cho nó dân dã, bình dân học vụ; gọi là Chùa Núi sợ nó trùng tên vì ở Việt Nam hầu hết các Chùa đều ở trên núi, còn gọi là Linh Sơn Trường Thọ thì nó văn hoa quá. Ta thống nhất gọi nó là Chùa Cú nha.

Có một anh bạn ở Phan Thiết hỏi tôi: ông có biết bài hát Em đi Chùa Hương của Nhạc sĩ Trung Đức phỏng thơ Nguyễn Nhược Pháp không? Tôi trả lời là biết. Anh ấy hỏi tiếp: ở ngoài Miền Bắc có Chùa Hương thì người ta hát “Hôm qua em đi Chùa Hương” còn ở quê ông chỉ có Chùa Cú thì phải hát làm sao? Nhờ các bạn hát dùm, nhớ phải đúng âm điệu của bài hát đó nha.

Viết đến đây tôi bắt chước phim bộ Hàn Quốc, Hồng Kông dừng đột ngột cho nó lôi cuốn người đọc ở những hồi tiếp theo (cũng là từ ngữ kiếm hiệp của Kim Dung). Hẹn các bạn vào kỳ tới.

Thứ Ba, 20 tháng 7, 2010

Hàm Thuận Nam

Chào các anh chị và các bạn cựu học sinh Trường Hải Long
Chắc hẳn các bạn đã xem những Video clip trên blog, có một nhận vật được Thầy Cương và các anh chị “kết nạp” làm thành viên của Trường Hải Long hôm họp mặt 6/3/2010 là tôi đó; tuy chưa học được ngày nào ở Trường các bạn nhưng qua những gì biết được trong những lần anh chị gặp nhau, kể cả gặp nhau trên blog; lâu dần mình trở thành cựu học sinh Trường Hải Long lúc nào không hay.
Không có những kỷ niệm đẹp của những ngày xa xưa đối với trường Hải Long và bạn bè như các anh chị để nói, mà im hơi lặng tiếng hoài thấy nó “kỳ một cục”, thôi đành viết một chút về quê hương mình vậy.


“Hồi” 1

Tôi sinh ra và lớn lên ở vùng đất Hàm Thuận Nam, cái tên nghe sao mà “lạ hoắc”, mà đúng là lạ thật vì nó mới được “khai sinh” từ sau năm 1983, vùng đất giáp ranh giữa Tỉnh Bình Tuy và Bình Thuận. Ngày xưa, ở đây khô cằn, sỏi đá, kế sinh nhai chính là làm rẫy, cũng có cái bờ biền dài trên 20 cây số, quanh năm suốt tháng chỉ “có cái nắng, có cái nóng, có cái gió” và có cả bụi cát (hát theo kiểu Siu black). Thế rồi một hôm, mấy cái ông doanh nghiệp từ Sài Gòn ra bắt chước Rạng, Mũi Né, Hòn Rơm từ từ biến thành một dãi dài những khu du lịch, lại có cả khu du lịch sinh thái nữa chứ, kiến trúc muôn màu muôn vẻ, đủ cả từ cổ tới kim; vô cùng đẹp. Tuy ở đây chưa có nhiều resort, nhiều khu nghĩ mát như Mũi Né Hòn Rơm nhưng những gì hiện có cũng đủ nói lên “trên cả tuyệt vời”, chẳng thế mà du khách sau khi đến đã đặt cho cái biệt danh “Đà Lạt trên sa mạc”.
Không tin ư ? Cũng được vì đã có câu “mắt thấy, tai nghe… hoặc là có thấy mới tin”. Thế thì mời bạn làm một chuyến về quê hương tôi đi, sẵn sàng đón tiếp các bạn và tình nguyện làm hướng dẫn viên miễn phí.
Chỉ cần rời khỏi Thành phố Phan Thiết theo hướng Sài Gòn chừng 20 cây số đường chim bay, dọc theo bờ biển, hình ảnh đầu tiên đập vào mắt bạn là những bãi cát trắng ngần với những hàng phi lao xanh thẳm; những bụi dứa dại lẫn lộn với cây nhãn rừng quấn chặt lấy bờ cát mang đầy tính hoang sơ. Biển ở đây vô cùng đẹp, rất sạch; nước xanh biêng biếc, êm đềm; thỉnh thoảng nhô lên những bãi đá không biết từ bao giờ và do ai đặt cho những cái tên mang hình dáng rất thật: Bãi yên ngựa (như cái yên trên lưng ngựa), Bãi đá nhảy (không nằm thành từng bãi mà rải rác như đá nhảy từ nơi này đến nơi kia), Bãi đá dăm (giống như có ai đó chẻ bãi đá thành những miếng dăm nhỏ)…
Ở đây bạn có thể ngã mình dưới những tán dù, ngắm biển xanh bao la; đu đưa theo nhịp võng giữa rừng phi lao bạt ngàn; thức trắng đến phờ người, khan tiếng với những đêm lửa trại hoặc ngồi ung dung câu cá trên những rìa đá hoặc rạo rực đón tia nắng đầu tiên trong ngày nhô lên từ mặt biển hay thả hồn trong yên tĩnh để ngắm hoàng hôn mờ dần sau những đồi cát…Bạn đã thấy hấp dẫn chưa ?...?...?


Tiếp tục đi về hướng Nam, bạn không thể bỏ qua ngọn Hải đăng trên một hòn đảo nhỏ chỉ cách bờ biển khoảng 500 mét nằm giữa bãi đá lớn với chiều cao 65 mét, đây là ngọn Hải đăng cổ nhất, cao nhất ở Việt Nam do kiến trúc sư người Pháp Snavat thiết kế xây dựng từ năm 1889 bằng đá hoa cương với 184 bậc thang xoắn ốc. Đây vừa là biểu tượng, vừa là niềm tự hào của quê hương tôi đó. Từ đỉnh Hải đăng lồng lộng gió phóng tầm mắt ra chung quanh, một bên là rừng cây xanh thẳm, một bên là biển cả mênh mông. Trước thiên nhiên bao la, con người như nhỏ bé lại, bay bỗng, hòa lẫn vào không gian…viết đến đây thì tự nhiên tôi mơ ước: tôi và các bạn lùi về thời quá khứ cách đây 30 năm về trước để cùng “bạn của mình” đến nơi đây hát cho nhau bài “Bên em là biển rộng” hay là câu “Biển một bên và em một bên”. Lãng mạn chết đi được.
Tôi viết tiếp nha
Thủy triều ở vùng biển này có nét rất riêng; hàng năm, sau tết Nguyên Đán có từ 2 đến 3 ngày nước xuống cạn kiệt, bạn có thể đi bộ từ bờ ra Hải đăng mà không phải đi bằng tàu như những ngày khác trong năm. Tôi đã gặp một đoàn du khách người nước ngoài, họ không thích đi tàu mà bám chung quanh cái thúng chai, mình chìm dưới nước để cho 1 tàu đánh cá kéo ra, tham quan xong, kéo vào; đi biển kiểu này mới độc đáo; có lẽ đi biển kiểu Úc (vì tôi thấy trên tivi quảng cáo hễ cái gì khác bình thường là kiểu Úc: ăn kiểu Úc, uống kiểu Úc…)
Biển ở đây cũng rất đặc biệt giống như thủy triều mà các vùng khác hiếm thấy, thường thì vào khoảng đầu tháng 9 dương lịch, từng đàn cá đủ loại, lớn có, nhỏ có cùng với một loài Tảo màu đỏ trôi dạt vào bờ; theo ngư dân thì những con cá bơi gần Tảo đỏ sẽ bị say, lờ đờ, sóng biển cuốn vào, nhưng chỉ một lát sau thì cá trở lại bình thường như chưa hề có chuyện gì xảy ra, không độc hại. Cứ thế, người dân địa phương và du khách tha hồ dùng tay không, có khi vớt cả rỗ đem về tự chế biến và thưởng thức ngon lành. Nếu có bạn Mai Chí, Gia Kế, Mai Thân, Vĩnh Lại, Tư Hào…ở đây, mình chỉ cần một bó củi đốt thành than hồng, nướng lên, nhắm với rượu gạo thôi; ngon tuyệt vời…


Viết đến đây thì người viết thấy dài quá, mỏi cả tay; mờ cả mắt mà người đọc cũng mệt gần xỉu, gần “tẩu hỏa nhập ma”. Thôi thì tạm dừng, hẹn “Hồi” 2 vào kỳ tới.