Hiển thị các bài đăng có nhãn Văn Học. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Văn Học. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 23 tháng 5, 2017

Giếng bụi tre

Chiếc xe than nhọc nhằn bò chậm rãi lên từng con dốc, qua biết bao ổ gà thỉnh thoảng người lơ xe lấy một thanh sắt dài cời than cho cháy rực lên, than theo cái lỗ nhỏ bên dưới rơi vãi xuống dọc đường cháy nhanh rồi vụt tắt. Chỉ có 80 km thôi nhưng muốn thăm ngoại phải đón hai chặng xe vất vả, mệt nhoài.
 Xe qua khỏi Dốc Bà Banh, rẽ phải gặp con hẻm đầu tiên là đến rồi. Căn nhà lá củ kỹ êm đềm, dịu dàng bốn mùa gió cát. Nghe tiếng lanh canh và tiếng gõ  của đòn gánh đôm đốp phía sau nhà, tôi vội vàng chạy ra. Ngồi yên lặng hàng giờ quan sát bà con gánh nước, điều vô cùng làm tôi thích thú. Cái giếng nước nhìn như những cái giếng bình thường khác, kề bên một bụi tre mát rượi nên bà con thường gọi “Giếng bụi tre“. Điều kỳ lạ là giếng chỉ cách biển vài chục mét nhưng nước rất ngọt mát, không khi nào khô và cung cấp nước dùng đủ cho bà con cả xóm và các xóm lân cận. Lũ con nít tắm biển xong tranh thủ chạy lên tranh nhau xối lại, từ tờ mờ sáng đến chạng vạng luôn có tiếng nói cười và âm thanh của nước.
Trong đám con gái gánh nước tôi đặc biệt chú ý một đứa con trai đen nhẻm dáng cao to mạnh khỏe. Mọi người kêu tên nó là thằng Mọi. Không tranh giành múc trước hay múc sau với ai cả, nó cứ ngồi lên đòn gánh kê giữa hai thùng nước rồi kiên nhẫn đợi. Có lần  tôi hỏi Mọi ơi, sao không đi học? nó nói nhà tui nghèo lắm, kiếm con cá ăn còn khó. Buổi sáng tui phụ ba đi kéo lưới rùng, xong buổi biển tui phụ má việc nhà nữa, em tui đông lắm. Mọi nè, cho tui…gánh nước thử một chút có được không? Nó quay mặt cười giấu cái bĩu môi kín đáo. Không đợi đồng ý, đặt vai vào đòn gánh tôi cố hết sức để nhấc  lên. Thùng nước không tài nào hở lên dù chỉ một chút so với mặt đất chứ đừng nói chi gánh đi. Vai đau lắm nhưng sĩ diện cũng lắm. Tôi xuýt xoa… Tui thử lại lần nữa nhen Mọi.
Tiếng má nó lanh lảnh đầu xóm: Bớ, Mọi! Dề ăn cum. Có nhiêu đó tôi nói liền: trả lại nè, má kiu  ‘‘dề ăn cum’’  kìa. Nó kê vội vai nhấc lên cái nhẹ. Một tay đặt lên đòn gánh bước đi, tay còn lại thả lỏng tự nhiên đánh đòng đưa theo bước. Hai thùng nước đè nặng trên vai nó, thanh đòn gánh oằn xuống tưởng chừng như sắp gãy. Tôi chợt nghe mùi cá nướng thơm lừng đâu đây, cũng lật đật chạy theo sau lưng.
Đêm xóm biển xuống vội, ngoại cẩn thận đóng cửa. Cửa là một tấm phên kéo sập xuống rồi được chắn ngang bằng khúc gỗ dài. Nằm nhìn ngọn đèn hột vịt, tôi nghe đủ âm thanh ngoài kia. Tiếng gió, tiếng sóng, thỉnh thoảng dừa khô rụng lộp độp ngoài sân. Ngoại nói, quê mình mùa Bấc là mùa gió dữ nhất.Gió làm bay đi hết các vật dụng để ngoài hiên nếu chưa kịp lấy vào. Cát trắng nõn nà đến vậy nhưng gặp gió xoáy, cuốn thành cơn lốc cát thốc lên vào mặt, vào mắt, vào cả mâm cơm. Gió bật tung cả những gốc dừa trơ rễ… Ngoại chép miệng , thiên nhiên nghìn đời như một. Tôi nghe gió lao xao rồi nhẹ nhàng chìm vào giấc ngủ quê hương.
Sáng, ngoại chống cửa lên. Dì chuẩn bị đôi quang gánh ra biển đón dượng đánh cá vào. Tôi nằng nặc xin theo mặc cho dì nói đường đi rất xa...Dì đon đả bước còn tôi phải chạy mới theo kịp bước của dì. Đoạn đường như một dãi lụa cát nhiều đồi dốc. Chốc chốc dì lại dừng bước chờ, tôi bắt đầu thở . Cát lún quá, ráng bước thật nhẹ nhưng cát lún thật sâu. Mỗi bước chân qua đều để lại dấu còn cát thì hất tung lên theo…Dì ơi, con đi hết nỗi rồi…
Dì gửi tôi cho một chiếc xe bò chở nước ngọt về lại. Ngày nào dì mình cũng vậy, thật vĩ đại. Cát đã lấp đầy, níu mỗi bước đi mà dì còn phải gánh thêm hai giỏ cá nặng… Tự nhiên tôi đỏ mặt theo hai dãy hoa xương rồng ven đường.
Thời gian sau nhiều năm tôi quay trở lại.
Đoạn đường vụt xe máy hơn hai tiếng là đến nơi. Hai bên dãy dừa dọc đường giờ là các khách sạn năm sao. Khách nước ngoài và đèn nhấp nháy như một thiên đường thu nhỏ.
Ngoại qua đời, nhà bán lại cho người khác. Tấm phên xưa giờ là cánh cửa kính sang trọng lành lạnh. Dì theo chồng mãi trên đình làng Khánh Thiện. Giếng bụi tre, còn không? Đoạn đường xuống giếng đây rồi. Hồi hộp, run run. Bụi tre còn đó cao um tùm già cỗi hơn. Còn không? chân tôi cơ hồ ríu lại. Đưa tay vẹt ngang đám cỏ dại cao vút chằng chịt. Tôi tìm. Tim như ngừng đập.
Bất chợt reo lên: Đây rồi! Giếng giờ cạn khô. Cát lấp gần đầy miệng. Hoang tàn, phế tích. Chợt thèm tiếng gõ đòn gánh quá đỗi, tôi đảo mắt hy vọng nhìn thấy bóng dáng thằng Mọi xưa… Tiếng con gà gáy trái buổi bỗng vang lên giọng lang thang xé tan mảng sương chiều hun hút lạnh. Ngoài kia con đường rộng rãi người xe nói cười ăn uống trong những ngôi nhà đẹp đắp nhiều phù điêu lạ mắt của ngày đổi mới.
Đêm. Gió đượm buồn và cát cũng ngẩn ngơ.
HUỲNH THỤC OANH
(Con gái Kim Hường – LaGi)

Thứ Tư, 7 tháng 8, 2013

  • Người vợ của Bùi Giáng

    | Vũ Đức Sao Biển - Văn chương
Đọc thơ Bùi Giáng, người ta nghĩ ông chỉ có những tình yêu viển mộng. Ít ai biết ông đã có một người vợ đẹp và những bài thơ tình hay nhất của ông là dành cho vợ. Người phụ nữ ấy chỉ sống với ông trên đời có 3 năm.
Tháng 7.2012, tôi trở lại thăm quê nhà ông - làng Thanh Châu (xã Duy Châu, Duy Xuyên, Quảng Nam). Ghé thăm nhà thờ tộc Bùi, được người phụ nữ chăm lo hương khói nơi đây cho xem gia phả của tộc. Qua câu chuyện, tôi khẳng định một điều mới mẻ: Nhà thơ Bùi Giáng đã có vợ. Hình tượng của bà và tình thương yêu, tiếc nuối ông dành cho bà là nội dung chủ đạo trong 4 tập thơ của ông: Mưa nguồn, Lá hoa cồn, Ngàn thu rớt hột và Màu hoa trên ngàn (in tại Sài Gòn từ năm 1962 - 1964).

Bà nhớ lại Bùi Giáng được cha mẹ cưới vợ cho năm 1945, khi ông vừa 19 tuổi. Hôn nhân ngày trước thường do cha mẹ đôi bên sắp đặt. Có lẽ, cuộc hôn nhân của Bùi Giáng cũng không đi ra ngoài quy ước đó. Người phụ nữ giữ nhà thờ tộc Bùi xác nhận: “Chị Bùi Giáng về làm dâu nhà ông bà bác tôi (cụ Bùi Thuyên và bà Huỳnh Thị Kiền - cha mẹ ông Bùi Giáng) năm 18 tuổi. Chị là người Duy Xuyên, đẹp lắm, tóc dài da trắng cái chi cũng đẹp. Tên thật của chị là Vạn Ninh”.

Tất cả thành viên trong gia đình đều quý yêu bà chị dâu trẻ. Ông Bùi Luân - em ruột Bùi Giáng - tỏ lòng quý mến của mình với người chị dâu trong tập thơ Chớp biển của Bùi Giáng in tại Canada năm 1996: “Phải nhận là chị xinh đẹp, cởi mở, vui tính, hồn nhiên… Gương mặt chị, hình ảnh chị đã nổi bật, sáng ngời mãi trong ký ức tôi. Duy có điều bất cứ ai, dù không biết gì nhiều về tướng số, gặp chị là cũng nhận ra ngay: Chị không thể ở lâu với chúng ta trên cõi đời này, dù cõi đời vốn đã ngắn ngủi. Lấy chồng được ba năm, chị đã đột ngột lìa đời lúc mới ngoài hai mươi tuổi… Chị trút hơi thở một cách bình thản”.

Vợ chồng Bùi Giáng được cha mẹ cho một khu vườn đẹp ở làng Trung Phước để lập nghiệp. Trung Phước là thung lũng trù phú ven sông Thu, kế cận mỏ than huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam ngày nay. Làng Trung Phước cách Thanh Châu trên dưới ba chục cây số. Có lẽ cuộc hôn nhân của lứa đôi trẻ trung này giữa miền đất Trung Phước không được êm ấm cho lắm. Ông Bùi Luân viết tiếp: “Chỉ một thời gian ngắn sau ngày cưới, người vợ trẻ đã phải lặn lội từ cái thung lũng ngoạn mục nhất đó, xuôi sông Thu Bồn êm đềm với ngàn dâu xanh ngát, về nhà bố mẹ chồng ở Thanh Châu cách hàng mấy chục cây số. Trên chiếc đò bé nhỏ, chàng trai nói với người vợ trẻ: Nếu em không đổi ý quay về, không bỏ qua chuyện cũ thì tôi sẽ… nhảy ra khỏi đò!

Khách xuôi đò tưởng người con trai đùa dọa người vợ mảnh dẻ. Để nguyên quần áo, ngay lập tức anh mình gieo xuống giữa dòng sông Thu. Và bơi theo đò. Để rồi thả trôi theo dòng nước hết chỗ mấy chục cây số đó, tới tận bến nhà”.

“Bỏ qua chuyện cũ” là chuyện gì? Đó là một chuyện hết sức tức cười và trẻ con. Ông Bùi Luân tiết lộ: “Cô con dâu đứng bên bà mẹ chồng sụt sùi: Anh cho con ăn toàn khoai lang và rau luộc. Anh không cho con mua cá mua thịt…”. Thì ra, Bùi Giáng đã… đi trước thời đại chúng ta về chủ trương… ăn chay. Ông hiểu một cách tuyệt đối thế nào đó về ẩm thực dưỡng sinh, nên chỉ thuận cho cô vợ ăn rau cải, củ quả mà không cho phép bà ăn gà, bò - hai món thịt ngon nhất của vùng Trung Phước.

Người vợ qua đời năm 1948 khi Bùi Giáng vắng nhà. Ông Bùi Luân viết tiếp: “Phút lâm chung, chị không thấy mặt chồng… Tôi chỉ biết là anh có mặt vào phút chót của buổi tiễn đưa chị về nơi an nghỉ cuối cùng - anh đứng bên cạnh chiếc quan tài với vành khăn trắng trên đầu”.

Bùi Giáng yêu vợ nhưng vẫn muốn… bỏ nhà đi chơi. Cũng bình thường như bao nhiêu người đàn ông Quảng Nam lãng mạn khi xa vợ, Bùi Giáng có thể gặp gỡ, giao lưu với những người phụ nữ khác và nhận ra họ vượt trội vợ ông về một vài phương diện nào đó. Thế nhưng, tình yêu và nỗi xót xa dành cho người vợ ở quê nhà thì rất đỗi mặn mà, vô cùng tha thiết:
“Mình ơi, tôi gọi bằng nhà
Nhà ơi, tôi gọi mình là nhà tôi”.
Hai năm sau cái chết của người vợ trẻ, ông dẫn một bầy dê lên Nông Sơn chăn thả, ngao du qua những đồi núi, suối khe mơ màng để nhớ thương vợ. Hai năm sau đó nữa, ông gửi bầy dê lại cho… chuồn chuồn và châu chấu, bỏ quê nhà đi chơi tiếp. Ở đâu, ông cũng phục hiện những hình ảnh yêu dấu xưa. Bài thơ nhớ vợ có một không khí rất đỗi bi ai, tràn đầy hoài cảm:
“Em chết bên bờ lúa.
Để lại trên lối mòn.
Một dấu chân bước của.
Một bàn chân bé con!
Anh qua trời cao nguyên.
Nhìn mây buồn bữa nọ.
Gió cuồng mưa khóc điên.
Trăng cuồng khuya trốn gió.
Mười năm sau xuống ruộng.
Đếm lại lúa bờ liền.
Máu trong mình mòn ruỗng.
Xương trong mình rả riêng.
Anh đi về đô hội.
Ngắm phố thị mơ màng.
Anh vùi thân trong tội lỗi.
Chợt đêm nào, gió bờ nọ bay sang”.
Bùi Giáng bỏ cố quận ra đi biền biệt. Ra đi nhưng ông vẫn nhớ, đến tha thiết não nùng. Nhớ nhưng ông không dám trở về bởi nơi nào ở cố quận cũng nhắc ông nghĩ đến tình yêu của người vợ khổ.

Ông gọi bà với nhiều tên gọi khác nhau. Đầu tiên, bà được gọi là “gái trần gian”. Ông có thể gặp gỡ, cười đùa, tán tỉnh cả trăm người phụ nữ khác nhưng lòng ông chỉ yêu và chỉ nhớ mỗi mình bà, đặc biệt những khi ông còn lại một mình, đối mặt với chính tâm thức cô đơn của mình:
“Đùa với Tuyết, giỡn với Vân.
Một mình nhớ mãi gái trần gian xa.
Sương buổi sớm, nắng chiều tà.
Trăm năm hồng lệ có là bao nhiêu?”.
Thứ hai, ông gọi bà là “con mọi nhỏ”. Người Duy Xuyên có lệ thương yêu ai thì gọi người ấy là “con mọi”, “thằng mọi”. Tôi lấy làm tiếc khi có vài người nghiên cứu văn học hiểu nhầm chữ “mọi” trong thơ Bùi Giáng:
“Mọi em là mọi sương xuân.
Ban sơ núi đỏ chào mừng non xanh”.
Thơ ông viết cho “con mọi nhỏ” của mình tràn đầy nỗi thương xót và tình yêu dấu:
“Giờ ly biệt, ta xin em đừng khóc.
Nào phải không?
Lệ chảy có vui gì?
Trang phượng mở giữa nguồn em hãy đọc.
Nước xuôi dòng, ngàn thu hận ra đi”.
Ông phong tặng người vợ của mình - con mọi nhỏ, lên thành mẹ của giang san:
“Em thành Mẹ của giang san.
Em là thần nữ đoạn trường chở che”.
Thơ ông viết cho vợ càng lúc càng trang trọng. Tất cả cái mẫu tính dịu dàng, hồn nhiên, tươi đẹp, đôn hậu toát lên từ con người của bà Bùi Giáng khiến ông cảm phục vợ. Từ một con người cụ thể, mảnh mai, bà vụt trở thành hình tượng cao quý nhất trong lòng ông, trong thơ ông:
“Em thuyền quyên ban mưa móc xum xuê.
Em rắc gieo khắp xứ sở bốn bề.
Suốt địa hạt tình quê hương ba ngõ.
Anh quỳ xuống gọi em: Em mọi nhỏ”.
Lắm khi ở phương xa, ông nhớ cố quận. Qua mấy mươi năm, hình ảnh người vợ trẻ, hiền ngoan ấy vẫn sống trong lòng ông. Ông uống trà giữa Sài Gòn mà hình ảnh của bà ngày xưa ở Quảng Nam như hiển hiện trước mắt:
“Trung niên thi sĩ uống trà.
Thưa em mọi nhỏ, em đà uống chưa?”.
Một nửa cuộc đời ông, một nửa trái tim ông dành để nhớ bà.

Thứ Bảy, 4 tháng 5, 2013

Mời đọc báo cuối tuần


Nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên

Nguyễn Tất Nhiên tên thật là Nguyễn Hoàng Hải sinh năm 1952 tại Biên Hòa, sau tháng 5-1975 sống tại Hoa Kỳ. Ông mất ngày 3-8-1992 tại California.
Mặc Lâm, phóng viên đài RFA
2009-11-08
Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này

Làm thơ năm 14 tuổi

nguyen-tat-nhien-150.jpg
Cố thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên. Photo courtesy of Wikipedia.
Theo lời những người bạn cùng trường thì Nguyễn Tất Nhiên làm thơ rất sớm khi mới 14 tuổi. Năm 1966, cùng với Đinh Thiên Phương, Nguyễn Tất Nhiên dùng bút hiệu Hoài Thi Yên Thi cho ra đời thi phẩm Nàng thơ trong mắt. Nhà thơ Du Tử Lê nhớ lại kỷ niệm mà ông có với Nguyễn Tất Nhiên trong giai đoạn này như sau:
“Giữa năm 1970, khi tôi đang ngồi ở cà phê La Pagode ở Sài Gòn cùng với mấy người bạn của tôi là các anh Nguyễn Đình Toàn, Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Quốc Trụ thì có một cậu học trò đẩy cửa đi vào hỏi tôi có phải là Du Tử Lê không, thì tôi nói là: “phải”. Sau đó cậu ấy tặng cho tôi một tập thơ nhan đề là Thiên Tai, và tác giả tập thơ đó tên là Hoài Thi Yên Thi. Cậu ấy cho biết là cậu đang học ở trường Ngô Quyền, Biên Hòa. Sau đó chúng tôi trở thành tình anh em rất là thân thiết. Đến lần gặp thứ hai thì cậu nói với tôi là cậu muốn có một tên hiệu khác, tức là một bút hiệu khác, vì bút hiệu Hoài Thi Yên Thi có vẻ thi văn đoàn quá. Tôi có chọn cho cậu ấy cái tên“Nguyễn Tất Nhiên”. Đó là kỷ niệm mà tôi rất nhớ.”

Khúc Tình Buồn

Trong những năm đó sinh viên học sinh miền Nam có phong trào thành lập Thi văn đoàn và những người có năng khiếu văn chương cùng tụ tập nhau lại để in những bài thơ, hay văn xuôi chung với nhau. Kỹ thuật quay ronéo để xuất bản tác phẩm của những người trẻ trong giai đoạn này rất phổ biến. Nguyễn Tất Nhiên nổi lên như một ngôi sao khi bài thơ Khúc Tình Buồn của ông được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc. Khúc Tình Buồn được đặt lại tên “Thà như giọt mưa” và trong nhiều tuần lễ sau đó, nhạc phẩm này hầu như ngày nào cũng phát trên đài phát thanh Sài Gòn được giới sinh viên học sinh chuyền tay nhau tập thơ của ông với tất cả sự thích thú vốn có của tuổi trẻ:

Người từ trăm năm
về qua sông rộng
ta ngoắc mòn tay
trùng trùng gió lộng

(thà như giọt mưa
vỡ trên tượng đá
thà như giọt mưa
khô trên tượng đá
có còn hơn không
mưa ôm tượng đá)

Người từ trăm năm
về khơi tình động
ta chạy vòng vòng
ta chạy mòn chân
nào hay đời cạn

(thà như giọt mưa
vỡ trên tượng đá
thà như giọt mưa
khô trên tượng đá
có còn hơn không
mưa ôm tượng đá)

Người từ trăm năm
về như dao nhọn
ngọt ngào vết đâm
ta chết âm thầm
máu chưa kịp đổ

(thà như giọt mưa
vỡ trên tượng đá
thà như giọt mưa
khô trên tượng đá
có còn hơn không
mưa ôm tượng đá)

Thà như giọt mưa
gieo xuống mặt người
vỡ tan vỡ tan
nào ta ân hận
bởi còn kịp nghe
nhịp run vồi vội
trên ngọn lông măng

(người từ trăm năm
vì ta phải khổ)
Khúc tình buồn

Người con gái tên Duyên

Bài thơ “Khúc Tình Buồn” không nhắc tới tên Duyên như trong nhạc phẩm “Thà Như Giọt Mưa” của Phạm Duy. Cô gái tên Duyên này là một nhân vật có thật và học chung lớp với nhà thơ tại trường trung học Ngô Quyền thành phố Biên Hòa, và tình cảm của ông đối với cô chính là nguồn cảm hứng khiến ông liên tục sáng tác những bài thơ nổi tiếng một thời chỉ để riêng tặng cho cô. Tuổi trẻ thời ấy thích thú với những dỗi hờn rất con nít của tác giả bài thơ khi mong cho người con gái tên Duyên sẽ đau khổ muôn niên, sẽ đau khổ trăm năm…lời lẽ như là chính cô gái đã phụ tình tác giả.
Cô gái xứ Bắc mang tên Bùi Thị Duyên ngày nào nay sống tại Michigan, Hoa Kỳ. Cô nhớ lại những kỷ niệm thật đẹp của tuổi học trò áo trắng:
“Tụi này học chung với nhau từ năm đệ tứ. Trường đó là trường nam-nữ học chung. Đến khi học sinh đông quá thì họ phân lớp ra, trong đó có một lớp đệ tứ “mix” giữa con trai với con gái. Sau đó tôi lên học ban B thì tôi học luôn đến lớp đệ nhất, học chung với tụi con trai, trong lớp chỉ có vài cô con gái thôi. Tụi này biết nhau từ hồi nhỏ, lúc đó cũng ngây thơ, tôi chưa nghĩ gì hết, còn Nguyễn Tất Nhiên nghĩ gì hay không thì tôi không biết. Gặp nhau, biết nhau từ lúc 14, 15 tuổi. Tôi được tặng một quyển thơ mà Nguyễn Tất Nhiên nói là có ba bản chính. Một bản của Nhiên, một bản cho tôi và một bản cho ai tôi quên mất rồi. In ra khoảng chừng 100 quyển thôi. Tôi biết sự hình thành quyển thơ của Nguyễn Tất Nhiên chứ không phải không, nhưng thật ra là chẳng có gì hết, tất cả bạn bè trong lớp ai cũng biết, nhưng đó là chuyện hồi nhỏ.”
Thật ra chính cái tên Duyên mới làm bài thơ nổi tiếng. Trong tập thơ Thiên Tai, Nguyễn Tất Nhiên có rất nhiều bài nói về người thiếu nữ tên Duyên và tập thơ này viết bởi nguồn cảm hứng duy nhất đó.
“Dĩ nhiên là phải xúc động bởi nguyên một quyển thơ viết cho tôi. Nhưng tôi đã nói với Nguyễn Tất Nhiên ngay từ đầu là mình làm bạn thôi, nếu có ý gì đó thì tôi không gặp nữa. Về sau anh ấy phải công nhận là muốn làm bạn, để còn được tiếp tục gặp một người bạn như tôi.Chắc anh ấy cũng quý tôi lắm.”

Nguồn cảm hứng tôn giáo

Thời gian trôi qua, những vần thơ nói về Duyên hay ám ảnh bởi Duyên không còn là nguồn cảm hứng chính trong thơ Nguyễn Tất Nhiên nữa. Thay vào đó nguồn hứng khởi tôn giáo bắt đầu đi vào thơ ông một cách tình cờ, bắt đầu từ bài “Hai năm tình lận đận”:
Chuông nhà thờ đổ mệt
Tượng Chúa gầy hơn xưa
Chúa bây giờ có lẽ
Rơi xuống trần gian mưa

Anh bây giờ có lẽ
Thiết tha hơn tín đồ
Nguyện làm cây thánh giá
Trên chót đỉnh nhà thờ

Cô đơn nhìn bụi bậm
Làm phân bón rêu xanh
Dù sao cây thánh giá
Cũng được người nhân danh

Càng về sau Nguyễn càng thấy hình tượng của Chúa, của Linh Mục, Ma Soeur gần gũi với ông hơn mặc dù nhà thơ là người ngoại đạo. Vì ngoại đạo nên thơ ông không chịu sự ràng buộc của tín lý, của đức vâng lời, tôn kính. Nguyễn Tất Nhiên tung tăng trong ngôn ngữ đức tin và bởi vô úy nên những lời thơ truyền thẳng vào tâm tình người đọc, bùng lên thứ cảm nhận vừa xuýt xoa ngạc nhiên vừa lâng lâng niềm khoái cảm của người ăn trái cấm:

vì tôi là linh mục
không mặc chiếc áo giòng
nên suốt đời hiu quạnh
nên suốt đời lang thang!

vì tôi là linh mục
giảng lời tình nhân gian
nên không có thánh kinh
nên không có bổn đạo
nên không có giáo đường
(một tín đồ duy nhất
vừa thiêu hủy lầu chuông!)

vì tôi là linh mục
phổ lời tình nhân gian
thành câu thơ buồn bã
nên hạnh phúc đâu còn
nên người tình duy nhất
vừa thiêu hủy lầu chuông
Nguyễn Tất Nhiên chậm rãi dìu người tình của mình nay hóa thân thành một Ma Soeur đằm thắm. Ma-Soeur-Người-yêu này nhẹ nhàng xưng tụng niềm thống hối như tín đồ xưng tội. Kẻ ngoại đạo cảm thấy Thượng Đế mỉm cưởi với mình qua ẩn dụ tràn ngập chân phước. Tình Yêu trở thành bất tử, và thánh hóa dưới ánh mắt hiền hòa của Chúa qua những vần thơ xưng tụng.
Ðưa em về dưới mưa
Nói năng chi cũng thừa
Phất phơ đời sương gió
Hồn mình gần nhau chưa?

Tay ta từng ngón tay
Vuốt lưng em tóc dài
Những trưa ngồi quán vắng
Chia nhau tình phôi thai

Xa nhau mà không hay
Hỡi em cười vô tội
Ðeo thánh giá huy hoàng
Hỡi ta nhiều sám hối
Tính nết vẫn hoang đàng!

Em hiền như ma soeur
Vết thương ta bốn mùa
Trái tim ta làm mủ
Ma soeur này ma soeur

Có dịu dàng ánh mắt
Có êm đềm cánh môi
Ru ta người bệnh hoạn
Ru ta suốt cuộc đời

Những năm cuối đời

Nguyễn Tất Nhiên ở những năm cuối đời đã có những biểu hiện của chứng trầm cảm. Người thơ thường đặt những câu hỏi gần gụi với cái vĩnh hằng, là sự chết. Chết trở thành một câu hỏi lớn theo đuổi nhà thơ, như bóng ma thời gian ám ảnh sự sống không ngừng. Trong bài Thiên Thu, nhà thơ thở dài buồn bã nhận ra bóng mình in trên bức tường vôi luống tuổi mang tên “Con người”:

sao thiên thu không là chôn sâu?
nên nắng xưa còn hanh mái tóc nhầu
tôi đứng như xe tang ngừng ngập
và một họ hàng khăn trắng buồn đau!

sao thiên thu không là đường chim?
nên mây năm xưa còn trên tay phiền
tôi đứng như tường vôi luống tuổi
và những tàng xanh chùm gởi quê hèn!

sao thiên thu không là lãng quên?
nên tình xưa còn cháy âm thầm
tôi đứng như căn nhà nám lửa
và những người thân trốn chạy vội vàng!

sao thiên thu không là sương tan?
nên mặt trời xưa còn gượng huy hoàng
tôi đứng như dòng sông yên lặng
và những cánh buồm kiệt sức lang thang!

“Cánh buồm kiệt sức” ấy không còn lang thang nữa, theo như lời kể của nhà báo Đinh Quang Anh Thái, người quen thân với nhà thơ từ thuở thiếu thời:
“Một tuần lễ trước ngày Nguyễn Tất Nhiên quyết định con đường ra đi, tôi và Nhiên ngồi với nhau ở ngoài lề đường. Tôi nói Nguyễn Tất Nhiên đi vào ăn cơm thì Nhiên nói rằng:“Cái thằng sắp chết không ăn”. Biết tính Nhiên từ lúc còn bé chơi với nhau, nên tôi cũng không để ý câu nói đó, tôi hỏi:“Vậy thì hút thuốc không?”, Nhiên cũng nói rằng:“Cái thằng sắp chết không hút thuốc lá”. Và đó là lần chót mà hai đứa có trao đổi với nhau. Và tuần lễ sau thì Nhiên mất. Thực sự ra thì từ lúc chơi với nhau ở Sài Gòn trước 75, và sau 75 thân thiết hơn, thì lúc nào Nhiên cũng mang một ý định muốn tự quyết định cuộc đời mình. Mãi sau, những người bạn thân với Nguyễn Tất Nhiên đều hiểu rằng có thể đó là một lúc mà tinh thần không được ổn định thì Nhiên nói thế thôi. Anh em không còn để ý và xem đó như là một lời nói có tính cách nghiêm trọng nữa. Không ngờ một tuần lễ trước khi Nhiên quyết định tự tử, Nhiên lại nói với bản thân tôi hai lần câu: “Người sắp chết không ăn cơm và người sắp chết không hút thuốc lá.”
Nguyễn Tất Nhiên ra đi ở tuổi 40 khi còn rất trẻ, khi mầm sống thi ca đến độ chín muồi nhất. Thế nhưng đối với trường hợp riêng ông thì quyết định chọn được nằm im để hòa mình vào nguồn minh triết của suy tưởng bất diệt có lẽ là một quyết định đúng với nhà thơ khi ông chợt nhận ra cõi đời đã trở nên vô nghĩa …