Hiển thị các bài đăng có nhãn Truyện. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Truyện. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 25 tháng 5, 2012

BỨC THƯ TÌNH

Chuyện xóm làng

           Mới sáng tinh mơ, vừa mới mở cửa đã thấy chị hàng xóm thất tha thất thểu, khuôn mặt buồn xo bơ phờ qua nhà tôi rồi. Nhìn vóc dáng của chị biết là có chuyện chẳng lành… Từ ngày gia đình tôi đến sống ở cái làng này, chị là người hàng xóm thường hay lui tới nhà tôi nhiều nhất, gia đình có chuyện vui, buồn đều sang kể như để chia sẻ, chung vui. Vợ chồng đi du lịch, đám cưới, đám ma…về đến nhà việc đầu tiên là qua nhà tôi kể rành rọt ngọn ngành, nhưng mọi lần hớn hở bao nhiêu thì hôm nay âu sầu bấy nhiêu.
          Số là chiều hôm qua, sau khi dạo một vòng mấy nhà lân cận trở về (thường thì vào giờ này chị đang tán dóc với mấy bà hàng xóm, gần tới giờ nấu cơm chiều mới về), bước vào cửa phát hiện chồng chị ngồi hí hoáy viết gì đó vào một tờ giấy, karaoke thì mở mà có hát đâu, thấy chị anh hơi giật mình vo vội tờ giấy chờ chị đi ra sau nhè nhẹ quăng xuống gầm bàn. Từ hồi nảo hồi nào đến giờ chỉ thấy ổng ghi số ký (KW) điện vào một cuốn sổ để theo dõi chong đèn thanh long chứ có bao giờ viết vào tờ giấy đâu, lại thậm thà thậm thụt nữa chớ. Linh tính của người phụ nữ cho biết là có chuyện không bình thường rồi. Chị nhanh trí lấy cái chổi giả bộ quét nhà, anh vừa ra khỏi cửa là chị khều ngay tờ giấy vo tròn cho vào túi ngay. Hồi nhỏ, gia đình chị nghèo khổ, ở vùng sâu vùng xa, lo phụ giúp cha mẹ việc đồng áng ruộng vườn nương rẫy có được đi học đâu, bây giờ một chữ bẻ làm đôi cũng không biết thì làm sao biết được ổng viết gì trong đó, mà nhờ mấy đứa con lỡ chúng biết chuyện cha chúng nó có ý này ý nọ thì chẳng hay ho gì.
          Đích thực là ổng viết thư tình rồi, nghĩ thế mà cả đêm trằn trọc không ngủ được, chị đâu có xa lạ gì cái tính trăng hoa của ổng từ thời trai trẻ, quen với chị rồi mà còn “bắt cá hai ba tay”, thậm chí về sống với nhau rồi chị còn nghe nói anh đèo bồng với người khác nữa, cũng chỉ nghe nói thôi chứ không đủ chứng cớ nên chị không làm gì được, mà không có lửa làm sao có khói. Chị nhớ lại mới tháng trước thôi, hai vợ chồng về quê đám giổ, anh bỏ chị một mình đi đâu cả buổi, hỏi đến anh nói lâu ngày gặp bạn bè đi nhậu. Có lần người ta còn bắt gặp ổng tán tỉnh bà đầu xóm chết chồng nữa chớ. Mấy năm còn nghèo khổ, vợ chồng lúc nào cũng bên nhau quanh năm suốt tháng vất vả cày cuốc ruộng vườn lo miếng cơm manh áo cho cả đàn con mười đứa đâu còn thì giờ nghĩ tới chuyện ong bướm. Bây giờ con cái đã lớn, có cháu nội cháu ngoại đầy đàn, kinh tế ổn định có đồng ra đồng vào bắt đầu sinh tật.
          Tôi giở tờ giấy ra xem, đúng là những lời lẽ yêu thương trai gái, chỉ có những đôi tình nhân yêu nhau thắm thiết mới bày tỏ nỗi lòng bằng những vần điệu da diết như thế. Mà sao tôi thấy quen quen, rất quen như mình đã đọc ở đâu rồi thì phải, nghĩ mãi không ra. Sực nhớ cư dân trên mạng có câu: Dân ta phải biết sử ta/ Nếu mà không biết thì tra Gu Gồ (google). Mặc dầu không phải là sử sách nhưng thử xem. Tôi gõ một hàng của “bức thư tình” liền hiện ra lu bù kết quả. Trong đó có nội dung của một bài hát ở thập niên sáu mươi, nói về tình yêu đôi lứa mà thời bấy giờ nhiều người rất thích…
          Thì ra, chồng của chị là người rất yêu văn nghệ, đám cưới đám tiệc mà anh không được hát là về ấm ức mấy ngày mới nguôi, đặc biệt sau khi có thêm rượu bia kích thích không những hát mà còn nhảy nữa, nhưng nhạc hồi xưa lâu ngày quên cũng nhiều, chẳng còn bài nào thuộc trọn vẹn cả. Mấy hôm trước nhận được thiệp mời của một người bạn tổ chức đám cưới cho con, nghe nói có bố trí sân khấu, quay phim, chụp ảnh hẳn hoi, thuê dàn nhạc nổi tiếng trong vùng, thậm chí được chiếu trực tiếp chương trình ca hát lên màn ảnh lớn. Anh thích bài hát này, quyết tâm học thiệt thuộc để biểu diễn, tranh thủ vợ đi qua nhà hàng xóm anh mở karaoke chép lời để học, viết chưa được nửa bài đâu ngờ bà vợ lại về bất thường làm anh cụt hứng; với lại bây giờ có bà ấy về coi nhà rồi tranh thủ vào rẫy tưới thanh long, để hôm nào viết lại. Anh cũng không hề biết “linh tính” của người phụ nữ nhạy cảm đến vậy.
          Nghe tôi giải thích, chị thở phào nhẹ nhỏm như trút được gánh nặng ngàn cân đè nặng chị từ chiều hôm qua đến giờ, chị tươi tỉnh hẳn lên vừa mừng vừa lo, mừng vì đó không phải là “bức thư tình” như linh tính mách bảo, lo là nếu anh biết được chuyện này, khi có rượu vào chị đừng hòng yên thân. Gì thì gì miễn đó không phải thư tình là được. Chị cười toe toét.

(Viết theo lời kể của Lanh Thị Lề vì bận "se chỉ luồn kim", kịp áo dài cho mấy cô giáo tổng kết niên học)
PĐN


Thứ Bảy, 17 tháng 9, 2011

Ông Tư

Cả làng ít ai biết tên trong giấy tờ của “ông Tư mù” là gì, người lớn gọi là anh Tư, trung niên gọi là chú Tư, còn trẻ nhỏ gọi là ông Tư; nhưng đó là trước mặt thôi chứ sau lưng thì thêm tiếng “mù” vì ông Tư bị mù, mà cũng chẳng ai biết vì sao ông bị mù và mù từ lúc nào.

Từ khi cái làng nhỏ ven tỉnh lộ này được hình thành đến nay người ta đã thấy “ông Tư mù” với vật “bất ly thân” là cái gậy tre, khuơ qua khuơ lại lọc cọc trên đường khi có việc phải ra khỏi nhà…Cũng có vợ con hẳn hoi, vì mù không làm nương rẫy đồng áng được nên ở nhà làm nghề đan lát, trời phú cho đôi bàn tay khéo léo, vót từng cái nan tre, chẻ từng sợi “lạt” buộc li ti mà con dao chưa hề phạm vào tay chảy máu, cả cái làng này thúng, mủng, rổ, rá, nia, dần, sàng, giỏ…đều mua của ông Tư mù, sản phẩm ông làm ra rất đẹp và sắc sảo ai ai cũng hài lòng. Ông còn có biệt tài là chỉ cần rờ tờ giấy bạc là biết mệnh giá bao nhiêu ngàn liền; muốn tới nhà ai trong xóm, chỉ cần dẫn đi lần đầu, những lần sau ông tự đi mà chưa hề sai nhà, lạc đường… Cả ngày ông làm bạn với cái Radô (Radio) nên tin tức, thời sự trong Nam ngoài Bắc; bên Tây bên Tàu ông đều thuộc làu làu. Cứ mươi bữa nửa tháng lại qua nhà tôi chơi, vừa uống tách trà nóng vừa kể vanh vách đủ thứ chuyện trên trời dưới đất mà ông nghe được từ cái Radô…

Trời chiều lắm rồi, tôi đi làm đồng về đã nghe thấy giọng bi bô của ông trước ngỏ. Lạ vậy cà, mới sáng sớm nay ông đã cùng tôi uống trà kể tôi nghe đủ thứ chuyện trong cái Radô mà, nào là chuyện biển đông; chuyện quan chức, đại gia nhậu nhẹt bê tha trên du thuyền, tắm kiểu mới có một cô bị rớt xuống sông chết đuối; chuyện Thứ trưởng khai gian học vị Tiến sĩ; chuyện trộm Kho bạc; chuyện giết người cướp tiệm vàng…kể cả chuyện ca sĩ lên sân khấu mặc quần bằng lưới gây xôn xao. Giờ cái “dzụ” gì nữa đây ta.

Tui qua báo cho chú Hai nó biết cái tin vừa mừng vừa lo, mừng là chiều nay con gái út nhà tôi nhận được giấy báo thi đậu Đại học, lo là không biết lấy tiền đâu cho nó ăn học đây. Tôi không biết trả lời sao đành nói dăm câu động viên. Hơi đâu anh Tư lo cho nó mệt, cháu nó thi đậu Đại học là nhà có phúc rồi, cái làng này thiếu gì nhà giàu nứt khố có con thi năm lần bảy lượt mà vẫn trượt là trượt, cái thằng Tám xóm trên năm ngoái con nó thi rớt, chê thầy ở cái Tỉnh lẻ này dạy dỡ, vào tận Thành phố ôn thi cả năm vậy mà vẫn rớt; còn cái thằng Ba xóm dưới, nghe nói làm tới cái chức gì to lắm, con nó vào Sài Gòn học bốn năm năm nay, cùng một lứa ra trường đứa nào cũng có bằng, nó thì không, té ra mấy năm nay bao nhiêu tiền gởi vào nó ăn chơi xả láng, đến trường được mấy buổi đâu mà bằng với cấp. Con anh Tư được như thế là vinh hạnh cho cái làng này lắm rồi. Thôi thì anh chị rán làm thêm, trời thương tình cho trúng mùa rồi mọi chuyện cũng sẽ đâu vào đó…Sẵn dịp tui mới câu được mấy con ếch, mình rai rai vài ly gọi là mừng cho cháu mà cũng mừng cho anh chị luôn.

Thế là nâng ly, xuống ly, cà kê dê ngỗng đủ thứ chuyện trên đời, trời tối lúc nào không hay, anh Tư mù cáo từ lọc cọc ra về, mới đến đầu ngỏ, tôi sực nhớ gọi với theo. Anh Tư, trời tối rồi, anh cầm cái đèn pin này mà về... Trời! Chú Hai mày uống có mấy ly mà say rồi sao? Hay là chú mày bôi bác tui. Mù lòa thế này thì trời sáng có khác gì trời tối, có đèn pin hay không có đèn pin có khác gì nhau đâu…Ấy! Ấy. Anh Tư hiểu sai ý tui rồi. Tui đưa đèn pin cho anh Tư không phải để anh thấy đường đi về mà để người ta thấy anh người ta tránh.

Cũng có lý !!!

Thứ Bảy, 6 tháng 8, 2011

Đánh ghen

Cùng chung một xã, cùng học một trường, cùng lớn lên ở một vùng quê nghèo cách huyện lỵ trên 10 cây số. Hết lớp 9, không đủ điều kiện kinh tế về trường huyện tiếp tục học, anh chị ở nhà phụ gia đình việc nương rẫy ruộng vườn.
Năm anh 22, chị cũng vừa tròn 21 tuổi, qua quen biết và mai mối giữa 2 gia đình, họ thành vợ chồng trong niềm vui của dòng họ, bạn bè, người thân, láng giềng. Ra ở riêng với vài đám ruộng và 3 sào đất do cha mẹ hai bên cho. Mùa mưa, anh chăm sóc ruộng đồng, nương rẫy; mùa khô nông nhàn, ai kêu gì làm nấy; do sáng ý nên từ việc sửa cái ghế gảy chân, cái cửa mối mọt ăn bung bản lề đến xây chuồng heo, làm cái sân phơi…thứ gì anh cũng làm được. Lại thêm có khiếu ăn nói, tính tình vui vẻ được bà con làng xóm thương mến nên quanh năm suốt tháng không mấy khi không có việc làm. Còn chị, mở một quán nhỏ, chủ yếu bán bánh kẹo và một ít đồ dùng sinh hoạt gia đình, buổi sáng còn tranh thủ bán thêm bánh mì, bánh canh…Cuộc sống ổn định, gia đình đầm ấm. Hạnh phúc được nhân lên gấp bội khi hai cháu một gái một trai lần lượt ra đời. Đúng là một mẫu gia đình lý tưởng và cũng là hình ảnh mà nhiều anh chị thanh niên vùng nông thôn chuẩn bị lập gia đình mơ ước.
Mấy năm gần đây, phong trào trồng cây thanh long phát triển rầm rộ, anh chị cóp nhặt toàn bộ số tiền dành dụm cũng đầu tư trồng thanh long. Lợi nhuận thu được đã biến ngôi nhà tôn vách đất của anh chị thành ngôi nhà xây, tiện nghi sinh hoạt: tivi, tủ lạnh, quạt máy, bếp gaz…được sắm sửa. Chưa dừng lại ở 3 sào thanh long, ngày ngày anh trên chiếc xe Dream mới mua, tới các vườn làm môi giới mua bán cho các chủ vựa thanh long; ban đầu chỉ quanh quẩn trong xã, sau đó mở rộng ra các vùng lân cận. Thu nhập ngày càng cao, cuộc sống gia đình ngày trở nên sung túc, chị nghỉ bán quán, hàng ngày chăm lo con cái và chăm sóc vườn thanh long. Còn anh, việc đi lại mua bán nhiều nơi nên ra khỏi nhà từ mờ sáng đến chiều tối mới về…Có hôm, chị còn nhận được điện thoại nói là phải “xã giao” với khách mua bán, có rượu bia đi xe về không an toàn nên ngủ lại. Thương chồng vất vả chăm lo làm ăn, chị tin. Mà đúng thật, tai nạn giao thông ngày càng nhiều, chị cũng muốn nếu có say xỉn thì không nên chạy xe về. Mấy tuần nay, việc “xã giao” phải ngủ lại xảy ra thường xuyên hơn, cách vài ba hôm lại ngủ lại một đêm. Thỏa mãn với những thứ hiện có: nhà cửa to đẹp, con cái ngoan ngoãn học hành, tiện nghi vật chất trong nhà đầy đủ, tiền bạc anh đưa về đều đặn…chị chẳng nghi ngờ gì việc anh đi về thất thường…
Trời chạng vạng tối, người em dâu hớt ha hớt hải tới báo cho chị cái tin “kinh thiên động địa” là người ta thường gặp anh ấy hay lui tới nhà của chị X ở xã bên, trước đây cũng đã có chồng nhưng ly dị từ lâu, không con cái gì cả, có sạp bán rau hành ngoài chợ, người em dâu đã hỏi tường tận biết rõ nhà cửa; người ta còn nói thỉnh thoảng thấy sáng sớm anh ấy từ nhà chị X đi ra. Quá sốc, mặt chị tái mét, tay chân run bắn; giờ này anh cũng chưa về, trời thì mây đen vần vũ chuẩn bị cơn mưa lớn ập đến. Đêm đó, lòng như lửa đốt, không thể nào ngủ được. Mới mờ sáng chị cùng người em dâu tức tốc đến nhà chị X, đứng trước sân nhà đối diện nhìn vào, cửa đóng im lìm, một lát sau cánh cửa hé mở, anh từ trong nhà dắt xe ra, thấy chị và người em dâu, một thoáng hốt hoảng rồi trấn tỉnh ngay, xem như không thấy gì, anh rồ ga phóng thẳng. Còn chị X, phát hiện có hai người phụ nữ sáng sớm đã đứng trước cổng nhà mình, trong đó có chị vợ anh ấy, chẳng xa lạ gì vì từ khi “già nhân ngãi, non vợ chồng” với anh, chị X đã tìm hiểu, biết mặt; đã có lần đến mua rau hành của chị, chị ghét cay ghét đắng từ dạo ấy. Những người đi đường hiếu kỳ dừng lại xem chuyện gì mỗi lúc một đông. Cánh cửa đóng rầm thật mạnh, hai chị em đứng như trời trồng một lát rồi ra về.
Tới nhà, đã thấy anh với khuôn mặt vừa lo, vừa sợ, vừa hối lỗi như mình vừa phạm một tội tày đình không thể sửa chữa được. Chị chẳng nói chẳng rằng, đi một mạch vào bếp. Không khí trong nhà căng thẳng nặng nề như chờ bom nổ chậm, chỉ cần đến thời điểm ấn định là vỡ toang. Cuối cùng thì anh lên tiếng trước “tự thú trước bình minh” và tuyên bố chấm dứt, không đi lại với chị X và cũng không mua thanh long ở khu vực nhà chị X nữa. Kể từ hôm ấy sáng đi trưa về, trưa đi chiều về, không còn tình trạng “xã giao” đi đứng tuồng luông như dạo trước. Còn chị, đàng nào cũng đã sống với nhau mấy chục năm, có con cái, nhà cửa công việc ổn định nên chị cũng bỏ qua không nhắc đến nữa…
Lại nói về chị X, sau cái buổi sáng đáng ghét ấy, không còn thấy anh tới lui, thế là mọi chuyện do vợ anh ấy mà ra cả, càng nghĩ càng tức, máu ghen trong người nổi lên, đến lúc không thể chịu đựng được nữa bèn rũ thêm 2 bạn hàng cùng buôn bán ngoài chợ bàn mưu tính kế, phải cho con này một mẻ cho nó biết mặt, phải làm cho khuôn mặt xinh đẹp của nó xấu đi, chồng nó chán rồi trước sau cũng sẽ bỏ…Đúng rồi, tạt ắc-xít, mà đàn bà mua ắc-xít chỉ có đi đánh ghen chứ để làm gì, người ta có chịu bán không chớ…Sau mấy ngày tính tới tính lui, ba người thống nhất đi đánh ghen “kiểu mới”, tạt bằng nước sôi.
Mới sáng sớm, trước nhà anh chị đã nghe tiếng ồn ào náo động, cả xóm chẳng hiểu chuyện gì chạy ra xem, thấy 3 chị phụ nữ khuơ chân múa tay “khiêu chiến” chưởi bới om sòm. Chị nghe tiếng ồn ào không biết chuyện gì cũng chạy ra xem, vừa ra khỏi cổng, thấy chị X, chị biết có chuyện chẳng lành vội quay lưng bỏ chạy, còn chị X liền mở nắp bình thủy trong chứa đầy nước sôi, không biết do tức giận hay do mệt nãy giờ gào rống hay “chưa có kinh nghiệm” đi đánh ghen, tay run lật bật, vặn tới vặn lui mới mở được nắp bình thủy, với tới tạt liền, vì ở tư thể chồm tới nên tạt theo hướng từ dưới lên trên và vòng ra sau, do miệng bình thủy nhỏ, nước không kịp văng ra phía trước mà lại văng lên trên và tung tóe ra chung quanh trúng cả chị và hai người bạn. Cuối cùng “địch” chạy thoát, không sao cả, còn “ta” tức là phe đánh ghen bị bỏng nước sôi, phải đến trạm y tế xã băng bó, bôi thuốc mỡ, cũng may chỉ bị nhẹ. Cả xóm chứng kiến cười một bữa no cả bụng, có người cười chảy cả nước mắt, có bà cụ già miệng nhai bỏm bẻm đứng xem phì cười văng cả miếng trầu dính áo người bên cạnh.
Cả tháng sau, mỗi khi nhàn rỗi, chuyện đánh ghen “kiểu mới” còn được chị em tụm năm tụm ba nhắc tới, cũng lại mỗi người thêm một tí làm câu chuyện thêm hấp dẫn, ai nghe cũng phải cười nôn cả ruột. Có người nói: đúng là đánh ghen “kiểu mới”, gậy ông đập lưng ông, người ta không sao, còn mình thì bị thương tích; có chị thêm vào: anh đó tính tình hiền lành vui vẻ thế mà “ghê” thật, có vợ con rồi mà còn trăng hoa, may mà “chưa gây hậu quả nghiêm trọng” chứ nếu có gì xảy ra biết giải quyết thế nào đây. Còn Bà Tư ù bán chuối chiên thì buột miệng: Đời thuở ngày nay lại có kiểu đánh ghen lộn ngược, bạn tình mà lại đánh ghen vợ người ta mới chết chứ!...Hết.

Thứ Bảy, 16 tháng 7, 2011

Chuyện xóm tôi

ĐỢI CHỜ
Cái tin “động trời” vợ anh T bỏ nhà theo trai làm xôn xao, náo động cả xóm vốn êm đềm, hiền hòa, quanh năm suốt tháng chỉ biết vui vầy với ruộng đồng cây trái. Mấy hôm rày, suốt ngày trời mưa tầm tả, công việc nhàn rỗi, cũng là dịp cho mấy chị phụ nữ tụm lại bàn tán, mỗi người thêm một chút làm câu chuyện ngày càng dài ra, ly kỳ, hấp dẫn…

Sinh ra và lớn lên ở một làng chài vừa làm biển vừa làm rẫy; cũng như bao chị em bình thường khác, chị lập gia đình. Trong một lần ra khơi gặp bão tố, chồng chị vĩnh viễn không bao giờ còn trở về. Một mình tần tảo nuôi 3 con nhỏ. Khi thì người ta gặp mẹ con chị hàng tuần lễ ở trên nương rẫy chặt củi, đốt than. Khi thì người ta gặp chị ngày ngày kĩu kịt gánh đậu hủ nặng trĩu trên vai đi khắp làng trên xóm dưới và dọc theo các quán ăn ven biển. Tuy đầu tắt mặt tối nhưng cũng chỉ bữa đói bữa no. Những đứa trẻ gầy gò, ốm yếu, đen thui vì nắng gió và vì thiếu ăn, còn chị ngày một xanh xao, vàng vọt, bơ phờ…

Người họ hàng xa giới thiệu chị cho anh T, một người đàn ông hơn chị trên 10 tuổi, chưa vợ con, sống một mình. Thương cho cuộc sống mẹ con chị và đồng cảm trong cảnh nghèo như nhau, anh T đồng ý. Họ đến với nhau chẳng tiệc tùng ầm ỷ chỉ bằng vài mâm cơm cúng ông bà và mời mấy nhà hàng xóm lân cận đến chứng kiến chung vui. Ngày thành hôn, anh lúng túng trong bộ quần áo mới, đi đứng mất tự nhiên, ai bảo sao làm vậy bởi quanh năm chỉ quen với bộ đồ lao động cuốc xới vườn tược và đi làm mướn. Sau khi khách khứa ra về, người ta thấy anh cởi phăng chiếc áo, mặc quần đùi ngồi chồm hổm sau cửa bếp với tô bún trên tay cho thoải mái, khỏi nực nội, bực bội vì cả buổi đi tới đi lui lo cho khách chưa kịp ăn…

Từ ngày mẹ con chị đùm túm xa rời vùng biển lên vùng quê, căn nhà tôn vách đất của anh bấy lâu nay im lìm buồn tẻ sôi động hẳn lên, tiếng trẻ thơ nô đùa, tiếng i a học bài làm anh thấy vui; nhà có người phụ nữ coi ngó, dọn dẹp, bếp núc hàng ngày, anh cảm thấy an tâm và ấm cúng. Năm sau, chị sanh cho anh một cháu gái xinh đẹp, dễ thương, có người còn bảo “giống cha như đúc”…

Những đứa trẻ bắt đầu lớn, nhu cầu chi tiêu cho ăn uống sinh hoạt trong gia đình ngày càng nhiều, hai vợ chồng từ mờ sáng đã cùng nhau trên chiếc xe đạp đi làm mướn dài hạn cho một chủ vườn trồng thanh long cách nhà gần một cây số, sau giờ làm anh còn tranh thủ chăm sóc vườn tược mới đủ tiền trang trải cho cuộc sống.

Mấy ngày nay trời trở gió, nóng bức, báo hiệu mùa mưa gần kề; ngôi nhà tôn vách đất cũ kỹ, ọp ẹp, xiêu vẹo, dột nát của anh không biết có chống chỏi nỗi với mùa mưa bão năm nay không; anh nghĩ mà thương cho mấy đứa nhỏ, lấy gì mà che nắng mưa cho chúng nó. Biết chuyện, người chủ vườn cho vợ chồng anh mượn tiền cất nhà, tuy không được rộng rãi lắm nhưng cũng được xây bằng gạch, lợp tôn, nền lót gạch men, tạm đủ cho 6 người trong gia đình trú nắng che mưa. Hai vợ chồng cần mẫn, chăm chỉ đi làm mướn quanh năm suốt tháng nhưng cũng không thể nào dư tiền trả cho chủ. Anh quyết định bán bớt mấy sào đất vườn do cha mẹ để lại để trả cho chủ, còn dư chút ít đầu tư trồng thanh long trên khoảnh đất còn lại.

Kể từ hôm ấy, anh chuyển sang làm mướn cho một vườn thanh long khác sát nhà, ngoài giờ làm anh tranh thủ không kể sớm khuya mưa nắng chăm sóc vườn thanh long long nhà mình, còn chị đi làm công cho một công ty chuyên mua và xuất khẩu thanh long có tiếng trong vùng. Thời gian thắm thoát qua đi, những đứa con riêng của chị cũng đã lớn, đứa nhỏ nhất cũng đã mười lăm mười sáu tuổi, chúng ra đi mỗi đứa một nơi tự làm ăn nuôi sống bản thân. Lâu thật lâu, có khi hàng mấy tháng trời mới thấy chúng về, nhưng cũng chỉ một lát rồi đi liền, cũng có khi kéo cả đám bạn bè về bắt gà vịt làm thịt nhậu nhẹt, say sưa; có đứa trở về quê nội rồi ở hẳn ngoài đó. Nhà chỉ còn 2 vợ chồng và đứa con gái chung của anh chị, nay cũng đã tám, chín tuổi. Ngày ngày chị vẫn đi làm ở công ty, anh vẫn đi làm mướn và chăm sóc vườn nhà.

Những lứa thanh long đầu tiên cho thu hoạch, nhà bắt đầu có dư chút ít, chị thì ngày một trắng trẻo, hồng hào, đầy đặn. Ra đường cũng son phấn, quần này áo kia theo thời trang; còn anh thì cũng chỉ bộ đồ lao động, gầy gò, đen nhẹm vì nắng mưa vườn tược. Tuy vậy nhưng rất mực thương vợ thương con, chỉ biết làm mà không hề nghĩ đến thứ gì riêng cho mình.

Thời gian gần đây, chị thường đi làm sớm, về trễ và quan hệ hơn mức bình thường với một người đàn ông đã có vợ con cùng làm chung nhỏ tuổi hơn chị; người ta thường thấy hai người chở nhau đi, tiếng xì xầm bàn tán râm ran trong công ty; nghi ngờ chị ngoại tình, mấy chị em hàng xóm gần nhà anh cùng làm chung công ty quyết bắt quả tang cho được để chị không còn chối cải, bỏ cái thói lẳng lơ, ong bướm, trăng hoa kia đi.

Tối nay mấy chị em ra khỏi công ty sớm hơn bình thường, núp sau những lùm cây ven đường để rình, họ bắt quả tang chị ngồi sau xe Honda anh đó chở đi mãi tới khuya mới về, còn đi đâu làm gì thì chẳng ai biết. Ở vùng nông thôn, chỉ cần có thế là đủ chứng minh chị không minh bạch, không chung thủy rồi. Đến tai anh, vốn tính tình thật thà, hiền lành anh không tin, cứ nghĩ họ ghét bỏ vợ anh nên đặt điều nói bậy, mãi tới mấy hôm sau, đi làm về, nghe đứa con gái nói mẹ xếp quần áo và nói là đi Sài Gòn lúc đó anh mới chưng hửng. Tiền bạc trong nhà cũng lấy đi sạch, người hàng xóm phải cho cha con mượn mấy ký gạo ăn đỡ chờ bán thanh long.

Biết chuyện, những người hàng xóm tốt bụng chỉ biết thương cho anh, lắc đầu, thở dài; còn những người nóng tính hơn thì bảo loại người vô ơn, bội bạc đó thì bỏ quách đi cho rồi, thương tiếc làm gì…Gần như cả cuộc đời anh không hề nghĩ đến bản thân mình, chỉ biết làm để cưu mang, bao bọc, chở che cho mẹ con chị. Khi đủ lông đủ cánh chúng biền biệt không hề nhớ đến anh, còn lại chị, cũng bỏ anh mà đi mất, càng nghĩ anh càng thấy tủi thân rươm rướm nước mắt và thương cho đứa con nhỏ không có mẹ…

Đã hơn một tháng rồi, chiều chiều bên mâm cơm trước hiên nhà, anh thẩn thờ đăm chiêu nhìn xa xăm mãi tận cuối con đường như chờ đợi hình bóng chị trở về, bên cạnh đứa con gái bé bỏng chờ cha ăn xong để bới chén cơm khác./.

Thứ Hai, 20 tháng 6, 2011

Thằng Ăn Cắp

Sưu tầm

Ở một làng nào đó bên xứ Ấn Độ, có một thương gia nghèo. Ðời sống khó khăn, nạn cường hào ác bá quá đỗi lộng hành khiến bác ta sống không nổi, phải bỏ đi một xứ xa sinh sống. Sống nơi đất khách quê người lâu ngày, lòng riêng vẫn tủi. Lại thêm tuổi đà xế bóng, tính ganh đua, lòng ham muốn cũng mỏi mòn. Một hôm chạnh nhớ cố hương, bác quyết định trở về. Bán hết tài sản lấy tiền mua vàng, gói vào một túi vải giấu trong túi hành lý khoác vai, bác lên đường về quê hương.

Trong vùng quê người thương gia, giữa một cánh đồng, dân trong vùng xây một ngôi chùa nhỏ để các nông phu buổi trưa ghé vào lễ Phật và nghỉ ngơi. Một cây bồ đề lâu năm che bóng rợp xuống một sân nhỏ lát gạch, một cái giếng khơi, nước mát và trong vắt, cũng là nơi cho khách bộ hành ghé chân nghỉ ngơi, giải khát, hoặc đôi khi ngủ qua đêm trong chùa. Chùa không có người coi. Phật tử trong chùa đều là nông dân. Lúc rảnh việc thì tự ý tới làm công quả quét tước, dọn dẹp, chăm sóc cho đám cây cỏ sân chùa lúc nào cũng hương khói quanh năm.

Sau nhiều ngày lặn lội đường xa, người thương gia về gần đến làng cũ. Trời đã xế trưa, nắng gắt. Ði ngang qua chùa, bác ghé vào nghỉ chân dưới gốc bồ đề. Ra giếng nước giải khát, rửa ráy sạch sẽ xong, bác vào chùa lễ Phật. Trong chùa vắng lặng. Bác thắp hương quỳ trước bàn thờ Phật. Ngước nhìn lên, nét mặt đức Thế Tôn vẫn trầm mặc như xưa nay, hơn mười năm qua không có gì thay đổi. Cảnh vật như đứng ngoài thời gian. Lễ xong, người thương gia rời chùa. Thấy bóng chiều đã ngả, đường về còn khá xa, bác liền rảo bước, bỏ quên túi hành lý trong chùa.

Buổi chiều hôm đó, một nông dân nghèo khổ trở về làng sau một ngày làm việc ngoài đồng. Ngang qua chùa, ngày nào cũng vậy, bác ghé vào lễ Phật trước khi trở về nhà. Lễ xong, bác trông thấy một túi vải to để gần bàn thờ. Bác ta nghĩ thầm: “Không biết túi vải của ai đi lễ đã bỏ quên. Nhỡ có người tham tâm lấy mất thì tội nghiệp cho người mất của. Âu là cứ mang về nhà rồi bảng thông báo để trả lại cho người ta.”

Về đến nhà, bác nông dân gọi vợ con ra, trỏ vào túi vải, nói:
- Ðây là vật người ta bỏ quên trong chùa. Nay mình cứ tạm kiểm kê rõ ràng, đầy đủ, mai mốt có người đến nhận đúng thì trả lại cho người ta.

Giở ra xem, thấy có gói vàng to, người nông dân nghiêm giọng dặn vợ con:
- Vàng của người ta là một vật rất nguy hiểm. Nó làm nảy lòng tham. Mọi điều bất chính, bất lương, mọi sự đau khổ cũng từ đó phát sinh. Mẹ con mày chớ có dúng tay vào mà khốn!

Bác cất cẩn thận vào rương, khóa lại.

Người thương gia rảo bước về gần đến làng, nhìn xa xa ráng chiều êm ả, những làn khói bếp vương vấn trên rặng tre quen thuộc. Cảnh xưa vẫn còn trong trí bác so với nay như không có gì thay đổi sau hơn mười năm xa cách.

Vừa đến cổng làng, người thương gia mới sực nhớ đã bỏ quên túi hành lý ở chùa. Lo sợ, hốt hoảng, bác vội quay lại con đường cũ, vừa chạy vừa kêu:
- Khổ thân tôi! Thế là tôi mất hết cả sản nghiệp dành dụm từ hơn mười năm nay! Bao nhiêu công lao trôi sống trôi biển cả rồi! Khổ thân tôi chưa!

Người đi đường ai thấy cũng ngạc nhiên.

Tới chùa thì cảnh vẫn vắng tanh, bên trong chỉ có một cụ già đang lễ Phật. Người thương gia vội túm lấy cụ già, hốt hoảng hỏi:
- Túi đồ của tôi đâu? Vàng của tôi đâu?

Cụ già ngạc nhiên:
- Túi đồ nào của bác? Vàng nào của bác?
- Thì cái túi hành lý tôi để quên hồi xế trưa trong chùa này!

Cụ già vẫn bình thản:
- Quả thật lão không thấy túi đồ của bác. Lão đã sống thanh đạm cả đời, nỡ nào trong chốc lát vứt bỏ lương tâm mà tham của người. Bác cứ bình tĩnh. Của mất, có duyên còn có ngày lấy lại, vô duyên thì của cầm trong tay cũng mất. Túi đồ của bác đã thất lạc, bác lại mất luôn cả cái tâm công chính, đỗ vấy cho người là cớ làm sao?

Gần đây có một xóm làng, buổi chiều nông dân thường lễ Phật trước khi về nhà. Bác thử tới đó hỏi xem. Thói thường, thấy vàng là tối mặt lại. Nhưng cũng còn tùy. Cũng còn có nhiều người tốt.

Người thương gia nghe ra, nhận thấy mình vô lý, bèn xin lỗi cụ già rồi theo lời chỉ dẫn, tiếp tục đi tìm. Tới làng, ông ta hỏi nhiều người mà không ai biết. Nghĩ rằng sản nghiệp dành dụm trong mười năm của mình nay phút chốc như chiếc lá vàng rơi theo gió đưa, biết đâu là bờ bến mà tìm! Ðành phó mặc cho bước chân tình cờ may rủi. Khi tới cuối làng, giữa vườn cây cối um tùm có một căn nhà lá nhỏ tồi tàn. Trước cửa treo một tấm bảng đen, với hàng chữ trắng viết to: “Tôi có nhặt được một túi vải bỏ quên trong chùa. Ai là chủ xin tới nhận lại.”

Người thương gia mừng quýnh đập cửa, gặp anh nông dân ra mở hỏi:
- Bác là chủ túi đồ bỏ quên trong chùa?
- Vâng, chính tôi. Tôi đã để quên trong chùa hồi xế trưa nay. Xin cho tôi nhận lại.
- Nếu đó là của bác thì bác phải nói xem túi đồ của bác như thế nào? Trong đựng những gì?

Người thương gia trả lời:
- Ðó là túi vải, trong đựng một ít lương khô đi đường.

Người nông phu nói:
- Thế thì không phải túi đồ của bác.
- Thú thật với bác, cũng còn một số vàng trong một gói vải khác màu đỏ.

Người nông phu nghe tả đúng các đồ vật và số lượng vàng đựng trong túi vải, biết chắc người tới hỏi là chủ nhân bèn mở rương ra, nói với người thương gia:
- Quả thật đó là túi đồ của bác. Xin mời vào nhận.

Người thương gia nhận đủ số vàng, lòng vui khôn tả. Bác thấy cảnh nhà người nông dân nghèo nàn mà lại không có lòng tham, để tỏ lòng biết ơn, bác chia đôi số vàng gói vào một miếng vải đưa cho người nông dân. Bác nói:
- Vàng của tôi tưởng đã mất, may sao lại gặp tấm lòng quý của bác. Tôi xin biếu bác một nửa để tỏ lòng thành thật biết ơn.

Người nông dân ngạc nhiên:
- Trả lại món vật không phải của mình chỉ là một việc bình thường, có ơn gì mà được đền?
- Bác đã làm một điều thiện. Ðược đền ơn là đúng lẽ.
- Làm việc thiện là nghĩa vụ tự nhiên. Đạo lý xưa nay vẫn dạy như vậy. Đó không phải là cái cớ để đòi hay nhận tiền thưởng. Cũng như lòng yêu dân tộc, yêu tổ quốc không phải là cái cớ để được trả công. Vàng của bác do công sức làm ra thì bác hưởng. Tôi có góp công lao gì vào đó mà chia phần? Thôi, xin bác hãy để tôi được sống yên vui trong cái nghèo của tôi hơn là sống giàu có nhờ vào của cải người khác. Như thế cũng là một cách ăn cắp.

Người thương gia không còn lý lẽ gì để nói thêm bèn khoác hành lý lên vai, bất thần vất gói vải đựng nửa số vàng lên bàn rồi bỏ chạy. Ý định của ông ta là bắt buộc bác nông dân phải nhận sự đền ơn, nhưng bác vội nhặt gói vàng rồi đuổi theo, miệng hô hoán:
- Bớ người ta, thằng ăn cắp! Bắt lấy thằng ăn cắp.

Dân trong làng nghe tiếng hô hoán liền đuổi theo bắt được người thương gia dẫn trở lại trước mặt bác nông dân, hỏi:
- Hắn đã ăn cắp vật gì của bác?
- Hắn định ăn cắp cái tâm công chính và chân thật mà tôi có được từ ngày tôi học Phật!

Những người làm việc công mà đòi trả ơn, làm việc thiện chỉ do tư lợi, làm việc nước cốt vì quyền hành địa vị... thảy đều không hiểu chuyện nầy!!

(Không biết tên người kể.)

Thứ Năm, 26 tháng 5, 2011

Cây Đa Bến Cộ Còn Lưa


Chuyện dân gian

Người Việt Nam chúng ta, không ai lại không có một góc trời quê hương nho nhỏ ở trong lòng, mà người đời thường gọi là "địa phương". Nơi đây chúng ta sinh ra và lớn lên, nhìn thấy sự hiện diện tất cả những gì xung quanh ta; những hình ảnh ấy sau nầy nó sẽ trở thành "kỷ niệm". Như con đường làng hai bên có hàng tre bao bọc, lả lướt theo bước chân em lần đầu tiên theo mẹ đến trường. Ngôi trường cũng nằm khuất sau hàng cây đổ bóng xuống chiều, khi mỗi lần vang lên hồi trống tan trường, là niềm vui cho xôn xao mộng ước được trở về dười mái gia đình, có cha mẹ có anh chị em quây quần trong niềm yêu thương đầm ấm.

Hình ảnh của mẹ, bóng dáng của cha đang hòa chung với tiếng cười con trẻ, dưới mái tranh nghèo như đang khua rộn một niềm vui, như thắp sáng bóng chiều quê cho dài thêm yêu mến. Đâu đây văng vẵng tiếng mõ trâu về, hay tiếng chày giả gạo của cuối xóm đầu thôn cùng đang hòa thêm sức sống, đang rót xuống nguồn hạnh phúc cho quê hương trong một thời thanh bình nào.

Cũng như tiếng nói, những lời bập bẹ đầu đời do cha mẹ, anh chị chúng ta tập nói. Tiếng nói đầu đời dĩ nhiên nó mang rất nhiều tính địa phương. Sự kiện tiếp nhận đầu tiên ấy, như vết mực chấm phá lên một tờ giấy trắng, để lại dấu vết không bao giờ phai nhòa. Dần dà rồi trở thành tập quán, mà không mấy ai có thể thay thế hay đổi mới được. Cho dù cái tập quán ấy không mấy tốt đẹp, hay hơi kém văn minh (hay quê mùa) nói theo kiểu người sống ở thành thị, hay những người rời xa quê hương, đang tiếp cận với thế giới mới.

Thế nên những người xa quê hương, không ai lại không nhớ lại và yêu mến một cách sâu sắc tiếng nói của địa phương mình. Nhất là quý cụ tuổi đã "thất thập cổ lai hy" cho đó là tồn sinh, là niềm tự hào về nguồn gốc, là mối giây kết hợp giữa quá khứ và tương lai, sự xác nhận sự hiện diện của mình. Nên cho dù có đến đâu, một nơi văn minh thành thị nào, họ cũng nói tiếng quê mình một cách tự nhiên, không cảm thấy mắc cỡ hay ngại ngùng. Trái lại họ cảm thấy như một niềm tự hào nữa là đằng khác. Niềm tự hào là họ được sinh ra và lớn lên nơi miền quê yêu dấu. Nơi ấy đã ghi lại trong lòng họ những kỷ niệm đầu đời. Với tình thân của họ hàng, giềng xóm, tập tục làng nước và nếp sống của tổ tiên. Họ nâng niu những thứ ấy như báu vật, và cảm thấy tiêng tiếc khi phải đổi thay. Hay khi phải lìa xa quê hương, không còn cơ hội để tiếp xúc với những người cùng chung quê quán, cùng một tập quán hay có những kỷ niệm đã chắt chiu; không còn được trải lòng ra để đón nhận những hơi hướm trẻ dại thời còn trên tay mẹ bồng.

Có lẽ tiếng nói đã nhập tâm, hay họ mến yêu như một nhu cầu cần thiết không thể thiếu được. Cho nên khi gặp một người nào đó có cùng chung một giọng nói, một tập tục thì họ đã cảm thấy như người thân rồi, mặc dù chưa quen biết hay gặp gỡ một lần nào. Bởi vì chính nó đã gợi lại những hình ảnh, âm thanh, màu sắc tuy không được trọn vẹn để biểu hiện lại cái gốc nhỏ quê hương trong lòng chúng ta, nhưng sự hiện hữu ấy cũng đã làm cho cõi lòng của mình cảm thấy một chút bâng khuâng. Vì nó làm sống lại một quảng đời ngỡ tưởng đã bay rơi đâu mất, không bao giờ có thể tìm kiếm lại được, dù chỉ trong giấc mơ.

Cuốn phim dỉ vãng bao giờ cũng đẹp và thiết tha, nét tinh hoa như vẫn còn mới mẻ, vì đó chính là những dữ kiện làm chúng ta nhung nhớ một thời đã xa. Đôi khi nỗi nhớ ấy có thể làm dịu bớt sự khắc khoải, những âu lo mà cuộc sống hiện tại đang chồng chất lên vai đời nặng trỉu, làm vơi bớt buồn phiền trong lúc cảm thấy cuộc đời lạc lỏng bơ vơ nơi xứ lạ quê người.

Hay được một người nào đó, kể cho nghe những chuyện cổ tích có thể chúng ta đã nghe qua một lần, hay nó dính dáng đến nơi chốn mình đã sống qua, nhắc nhỡ lại mấy địa danh quen thuộc. Cũng đủ khiến cho cõi lòng mở ra đón nhận những nỗi niềm dấu yêu, mà có lẽ đã từ lâu che khuất nơi một góc kín tâm hồn của những người đi.

Như chuyện tình cô lái đò của một ngày rất xa xưa, với anh chàng thư sinh nào đó, trên bến đò quê hương. Tuy chỉ mới giao ước, nhưng cũng đã ghi lại một tình sử đẹp tuyệt vời! Mà hoàn cảnh éo le đã vẽ lại một tâm trạng não nùng, khiến cho ai nghe lại cũng cảm thấy bâng khuâng trước cảnh đời trắc ẩn, đang khua vọng nỗi niềm tiếc thương đến triền miên không dứt.

Chuyện kể rằng: Ngày xưa có một chàng thư sinh, sinh trưởng nơi quê hương xứ Nghệ, tuy hoàn cảnh nhà nghèo, nhưng thuộc dòng dõi nho gia có ý chí muốn lập thân với đời, nên đã gắng sức dồi mài kinh sử, mong một ngày mai thành tựu sự nghiệp cho rạng danh dòng họ. Và đến một ngày khi cảm thấy sự học có thể đủ đầy, chàng quyết chí lên đường vào Huế tham dự khoa thi. Ngày xưa các tỉnh miền Trung không có xe tàu, nên phải di chuyển theo đường bộ. Ngày đi đêm nghỉ, đường sá thì hiểm trở, cách đò trở giang nhưng chàng đã quyết nên vẫn khăn gói lên đường. Trải bao vất vã khi qua truông vượt phá. Dù gian lao đến đâu chàng cũng cố gắng để vượt qua, chưa bao giờ nản chí.

Khi đến vùng đất Quảng Trị chàng dừng nghỉ bên cạnh một con sông, lúc trời gần sập tối. Bóng chiều thướt tha trải dài trên dòng sông lung linh màu huyết dụ, lãng đảng trên bầu trời vài cánh chìm đang bay về đâu đó tìm chổ nương đêm. Cảnh vắng lặng trên bến sông gợi lên một niềm hắt hiu buồn, không một bóng người qua lại, duy chỉ còn cô lái đò chuẩn bị neo thuyền để về nhà. Gặp dịp may chàng thư sinh đánh liều hỏi thăm cô lái đò, rồi kể lễ mọi điều. Như thiết tha cầu khẩn, rồi chàng bày tỏ hoàn cảnh của mình, cần thiết phải qua sông để tiếp bước cho kịp khoa thi. Thấy diện mạo tuấn tú, với gương mặt cương nghị và tấm lòng quyết chí lập công danh, nên cô lái thương tình đưa chàng qua sông. Mặc dầu trời đang giông gió, ra giữa sông giông gió thổi mạnh, nhưng cô lái vẫn cố sức chèo và cất tiếng hát :

Dầu trời làm trận phong ba
Thương chàng thiếp gắng cho qua sông nầy!

Chàng thư sinh xúc động trước tấm tình chất phác nhưng chân thành kia của cô lái đò, nên vội vàng đáp lại rằng

Lạy trời thi đậu Thám hoa
Trở về đền ơn đáp nghĩa cho cây đa bến đò!

Tình cảm nẩy nở giữa chàng trai tài hoa kia với cô lái đò hiền thục ấy đã được cây đa bến cộ chứng minh, và trong lòng của họ cũng đang nở rộ hoa yêu thương. Mối tình tuy mới chớm nhưng họ cảm thấy đã khắng khít trăm năm. Một bên vì nghĩa, một bên vì tình, bên nào cũng nặng như nhau, muốn nói với nhau những lời thệ ước, trao nhau duyên tình cho trọn nghĩa trăm năm. Nhưng tình duyên chưa thể dừng lại để chung lòng mộng ước, vì chàng thư sinh kia công chưa thành danh chưa toại, nên đành phải từ giả người bạn lòng để lên đường ứng thí.

Cô lái đò thì phải ở lại với quê nhà, hằng ngày lặng lẽ đưa khách qua sông để kiếm tiền độ nhật, cùng phụng dưỡng cha già mẹ yếu.

Còn chàng thư sinh kia, khi đến được kinh đô dự thí, không may khoa đầu bị hỏng, mà trở lại quê nhà thì không còn lộ phí. Chàng đành tìm kiếm một chân thầy đồ dạy học để đợi khoa sau.

Ở nhà cô lái đò ngày ngóng đêm trông, mong chàng trở lại. Nhưng năm qua tháng lại mỏi mòn. Lòng thương nhớ đã làm cô ta tiều tụy, tuy vẫn hy vọng một mai!

Nhìn bao sĩ tử vinh quy, nhưng người bạn lòng thì bóng chim tăm cá! Những nhớ thương dần dần trở thành sầu hận, trách cho người nghĩa nhơn vội quên lời thệ ước. Mỗi lần chèo thuyền ra giữa sông, thấy trời rộng sông dài chợt nhớ đến người tình củ, cô lái đò lại cất giọng hò áo não như tự nhắn nhủ với chính mình:

Tiền tài như phấn thổ
Nghĩa trọng tựa thiên kim
Con le le mấy thuở chết chìm
Người tình nhân bạc nghĩa khôn tìm mần chi!

Trong lúc quá tuyệt vọng mới buông những lời lẽ bất cần để cho vơi hận tủi. Tuy thế cô lái đò vẫn một lòng nghĩ đến người xưa, mặc dầu chỉ mới những lời thề nguyền của thuở đầu đời, với một người mới gặp trong giây lát. Nhưng tình như đã mặn, nghĩa đã nồng, nên tấm lòng chung thủy vẫn sắt son. Lòng vẫn nhủ lòng chờ đợi tình lang, cho dù ai đó có quên câu ước nguyện.

Tuy nỗi thương hận đã dâng ngập mỗi khi nhớ đến người xưa, nhưng cô lái đò vẫn nhủ lòng hãy chờ đợi. Vì biết đâu những trắc trở ấy là cơ hội chuốt gọt cho duyên tình lứa đôi thêm phần keo sơn thắm thiết đến mai sau. Và thêm nghĩ Trời cao đâu nỡ phụ lòng thành của mình, nên cô vẫn đợi cho dù chờ đợi đã mõi mòn.

Chàng thư sinh kia đến khoa thứ ba mới đổ thám hoa, lòng hớn hở trở về làng cũ vinh quy, trước tiên ghé lại bến đò xưa để đền ơn đáp nghĩa, cho trọn với lời nguyền.

Nhưng khi đến bến đò xưa thì chỉ thấy một lão già đang lặng lẽ chèo thuyền đưa khách. Hỏi ra mới biết ông già là thân phụ của cô lái đò ngày trước. Còn cô lái đò thì trong thời gian xa cách, cô tự xem mình là gái đã có chồng, nên từ chối những chàng trai làng đến dạm hỏi. Tuy mỗi ngày cô ít nói và hao gầy, nhưng cô vẫn một lòng chung thủy với người xưa, nuôi bao hy vọng đợi chờ.

Trong một buổi chiều vắng khách, cô neo thuyền vào ngồi tựa gốc đa lòng mơ tưởng đến người xưa, đến những lời đã hẹn thề. Chợt cô nghe có tiếng gọi đò của chàng bên kia sông, cô vội vã chèo đò sang, lòng mừng vui khôn xiết. Khi ra giữa dòng sông nhìn qua bên kia bờ, thấy vắng tanh không một bóng người, cô mới biết mình nghe lầm! Quá đau khổ cho thân phận, nghĩ mình chưa bao giờ gian dối với tình nhân, mà giờ đây lại gặp cảnh trớ trêu đẩy đưa duyên số. Lòng chợt buồn thương đến quặn thắt, với những xót xa đang vò xé tâm can tan nát, nhưng không biết cùng ai tâm sự cho vơi bớt nỗi niềm. Trong giây phút không kềm chế được sự tuyệt vọng ấy, cô đã gieo mình xuống dòng nước tự trầm!

Nghe xong câu chuyện, chàng thư sinh kia không dấu được nỗi đau lòng, đứng nhìn cảnh củ còn nguyên mà người xưa đã khuất bóng! Chạnh nhớ đến một lần nơi chốn nầy…, khiến chàng chợt thốt lên những lời thơ nghe thật ai oán ngậm ngùi :

Trăm năm đành lỗi hẹn hò.
Cây đa, bến cộ, con đò khác đưa.
Cây đa bến cộ còn lưa.
Con đò đã thác năm xưa tê rồi!

Tuy chàng không đá động gì đến người thiếu nữ đã một lần đưa chàng qua sông, nhờ vậy mà bây giờ chàng đã công thành danh toại. Hình ảnh người thiếu nữ ấy, đã một lần gặp gở, đã một lần hẹn ước nhưng cao xanh đành phụ kẻ có lòng, cho nên có lẽ chàng chỉ gói trọn trong tim mình như hình bóng chung đời. Để tưởng nhớ đến người tình chung thủy, nhớ đến ân nghĩa thâm sâu, nên chàng chỉ nhắc nhở đến con đò:

Con đò đã thác năm xưa tê rồi!

Một tấm lòng kín đáo và thiết tha vô vàn? Một tiếng than nghe đến não lòng! Qua một chuyện tình sử thật tuyệt vời, với một tấm lòng trung trinh tiết nghĩa, nhưng lạc vào hoàn cảnh éo le, đã tạo nên một cảnh bẽ bàng, khiến cho người còn phải cưu mang một niềm đau sâu lắng quạnh hút đang nhận chìm tiếc thương xuống tận đáy oan khiên.

Nói đến bến đò và cây đa thì ở đâu cũng có, nhưng cái gốc quê hương nầy lại gắn liền với tiếng nói, không thể tách rời ra được. Cũng có thể nhờ vậy mà chuyện bến đò kia và cây đa nọ lại có một chân dung riêng biệt, một nguồn gốc hiện thực mang tính chất đặc thù như đã gắn bó với lòng người Quảng Trị. Có lẽ câu chuyện nơi cây đa bến cộ nay đã trở thành một loại tình sử vừa thơ mộng vừa thương tâm! Nó chứa đựng đầy đủ cả ân lẫn nghĩa và tình.

Ngày xưa chỉ có cố đô Huế thuộc tỉnh Thừa Thiên là trung tâm văn hóa của miền Trung, nên nơi đây mới có trường Trung học trở lên, mới có những kỳ thi khoa cử. Còn Quảng Trị, Quảng Bình, Nghệ Tỉnh chỉ có trường tiểu học mà thôi, thời Pháp thuộc học đến yếu lược là hết. Ai muốn con mình tiến thân lên nữa, thì phải đưa con vào Huế trọ học. Nhưng người dân thuộc mấy tỉnh nầy phần nhiều con nhà nghèo khó, có mấy ai đủ khả năng cho con đi học xa được. Họa hoằn có một vài gia đình khá giả, hay chức sắc trong chính quyền mới có tiền để cho con học lên cao. Cho nên ngày xưa khi có một người đổ đạt, trở về thăm làng xã là một vinh dự lớn lao lắm. Có dân làng ra đón tiếp rất trọng thể, gọi là lễ vinh quy về làng!

Bến Cộ là do chữ cũ đọc trại ra, cho thấy bến đò ấy đã xa xưa lắm rồi, đã cộ càng biết mấy. Vì ngày xưa ở Quảng Trị chưa có cầu cống, từ Gio Linh, Triệu Phong muốn vào trong Huế thì phải qua mấy bến đò? Sông Vĩnh Định, khi chảy đến xã Cam Hiếu thì có tên sông Hiếu Giang, khi chảy đến Đông Hà thì gọi là sông Điếu Ngao… rồi đến sông Thạch Hãn, sông Mỹ Chánh còn gọi sông Ô Lâu. Cho nên bến Cộ cây đa ở trong truyền thuyết nầy, không thể xác định được bến ấy thuộc sông nào, tuy nhiên có thể dạng chừng mô đó ở Quảng Trị. Vì dựa vào tiếng nói địa phương nơi đây mà thôi. Cho nên đối với người dân địa phương, hay những người đã sinh sống nơi đây, khi nghe đến chữ “bến cộ còn lưa”, thì cảm thấy rất thâm thúy mang tính quyến rũ, thật dễ thương và với họ thì nghe thật hay ho đến chừng nào.

Nói đến cảnh đổi thay, cảnh biển dâu của thời thế hay thân phận con người giữa cuộc thăng trầm, Đổ Phủ có bài thơ Vọng Xuân, được mở đầu bằng câu:

Quốc phá sơn hà tại
Thành xuân thảo mọc thâm

Nhưng khi gợi nhớ đến quê hương mà nhắc đến sông núi, thấy không cảm một cách thiết tha và đằm thắm như nhắc nhở lại một vài hình ảnh gần gủi nhất, nhỏ nhoi nhất như bờ tre bụi chuối, hay bến cộ cây đa. Vì đất nước nào lại không có núi sông, cho nên thấy nó bao la quá, mênh mông quá, không thể hình dung trọn vẹn một gốc quê hương trong tim mình, bằng những hình ảnh gần gủi và quen thuộc nhất. Nên tình cảm vì vậy cũng không được thắm thiết, thân thương. Do đó tình yêu mến lại giảm đi, không sâu đậm và tha thiết.

Bếp lửa mà mẹ đã đốt trong mùa đông để cho cả nhà sưởi ấm, đến bây giờ dù không gian và thời gian đã nghìn trùng, nhưng cái cảm giác ấm cúng vẫn còn như đâu đây, mỗi lần nhắc đến, mỗi khi nghĩ về. Mái tranh nghèo mà cha đã dựng lên để che nắng che mưa, tuy nó đơn sơ nhưng cũng khá nhiều văn nhân nhắc nhỡ đến; nhắc nhỡ với tấm lòng quyến luyến thiết tha, chứ không phải chỉ để tả cảnh đơn sơ của một xóm nghèo, hay một làng quê.

Thêm chữ ”còn lưa” nó cũng đồng nghĩa với tồn tại, nhưng sao khi nghe đến chữ còn lưa thì cảm thấy một chút gì yêu mến? Phải chăng nó phát xuất từ khi biết tập nói, đã dính liền với mạch đời cho nên cái cảm giác ấy cứ bám theo trong hồn, ghi theo trong lòng không bao giờ phai nhạt.

Một điểm nữa của câu chuyện đã ghi lại tấm lòng chung thủy của cô thôn nữ. Vì họ vốn sinh ra và được ướp hương hoa của đồng nội, mây ngàn nên tâm hồn của họ cũng trong sáng như kim cương, tình cảm của họ cũng tinh khiết như suối nguồn. Khi phải lòng một người nào thì cho đó là tình keo sơn, nghĩa đá vàng. Vì họ thường quan niệm chuyện lương duyên là do thiên định:

Em cũng muốn lấy chồng để báo đáp thôn đương
Bợi ông trời côi không cột nên phải náu nương đợi chờ!

(Thôn đương là tiếng địa phương, cũng như gọi là gia đương là chỉ gia đình, huyên đương là mẹ...) Theo chuyện cổ tích dân gian, thì nhân duyên chồng vợ là do ngày xưa ông Trời sai ông Tơ bà Nguyệt dùng chỉ thắm để buộc chặt hai người trai gái lại với nhau, gọi là “ông Tơ bà Nguyệt xe duyên”.

Cũng như câu chuyện trầu cau, theo truyền thuyết ngày xưa ở nước ta trong một thời thái bình thịnh trị, nhân một ngày đẹp trời Vua quan của triều đình xa giá đi thăm dân cho biết sự tình. Khi qua đến một ngôi làng nằm cạnh bờ sông, xa mã của Vua dừng lại được dân làng ra tiếp đón. Mấy bô lão trong làng dâng lên Vua một món quà thổ sản của làng, đó là ba trái cau ba lá trầu và một cục đá vôi rồi giải thích: Đây là sản phẩm đặc biệt của địa phương, vì ba thứ nầy gộp chung với nhau mà ăn thì tạo nên một chất đỏ như máu. Ban đầu mới ăn thì hơi cay nồng, nhưng ăn một lát lại có vị ngọt và cảm giác ngây ngất say say.

Vua đứng ngẫm nghĩ một lát rồi truyền cho dân làng: Kể từ nay khi có các cuộc cưới hỏi hãy dùng vật nầy làm sính lễ, vì nó tượng trưng cho sự hòa hợp và gắn bó suốt đời của tình chồng vợ. Dân làng nghe theo lời Vua một mặt vì hợp tình hợp lý, mặt khác nữa Vua là Thiên tử nên nói gì cũng đúng, vì vậy mà dân làng nghe theo. Từ ấy, người dân quê Việt Nam xem trầu cau như là những tặng vật quý giá nhất cho việc cưới hỏi. Sau nầy lan rộng ra trong những dịp hội hè đình đám, người dân quê có thêm cái tục lệ, họ thường mời nhau ăn cau trầu, hay sử dụng để làm tặng phẩm trong các cuộc cưới hỏi, cũng như dùng làm lễ vật để cúng kiến. Hiện tại tục lệ dùng cau trầu vẫn còn được người dân quê trân trọng.

Nên sau nầy cứ theo những truyền thuyết ấy mà giữ như một cái Đạo. Hiện thân của cái đạo ấy là sự kết hợp lương duyên, để lưu truyền giồng giống từ những đấng sinh thành ra mình. Và đạo làm con phải hiếu thảo với cha mẹ thì mới nên người, thì mới hợp với Đạo Trời. Vì thế cho nên người con hiếu thảo là phải luôn luôn vâng lời cha mẹ, kể cả những việc hệ trọng nhất của cuộc đời, như việc hôn nhân chẳng hạn:

Nơi con không thương thì thầy mẹ ép
Nơi tình ưa ý đẹp thì thầy mẹ đón ngăn
Thân em khác chi đá nằm côi cỏ, biết mần răng đặng chừ!?
(Câu hò địa phương)

Vô hình trung mà người dân quê lại tự tạo ra một tập quán, rồi cứ vậy mà tuân theo như trời định, mà họ không dám làm trái lại với luật tự nhiên:

Đạo vợ chồng phải ở thật ăn ngay
Đừng có lường thưng tráo đấu, đổi thay mà tội trời.
(Câu hò dân gian)

Tình nghĩa vợ chồng mà đã xem như một cái đạo rồi thì phải noi theo, mà ăn ngay ở thẳng. Nếu không biết ăn ngay ở thẳng, thì sợ tội trời. (lường thưng, tráo đấu: tiếng địa phương, ngày xưa không có bàn cân hay thước đo, mà người ta chỉ dùng những nông cụ đan bằng tre để đo lường lúa gạo, nên thường gọi là một đấu lúa, một thưng khoai. Thưng và đấu thì có cái lớn cái nhỏ, ý khuyên người đời đừng cho vay bằng đấu nhỏ, mà khi trả về thì đong đấu lớn, như vậy là người tham lam, thiếu đạo đức. Ngược lại, người trong một làng xã xóm giềng, thì phải đối đãi với nhau thế nào cho phải đạo, nghĩa là phải dùng cái chân cái thiện để ăn ở, để xử thế với đời).

Tôn giáo cũng dạy cho con người những thứ ấy, mà ngày xưa ông bà tổ tiên chúng ta chưa biết đến tôn giáo, nhưng lẽ đạo đã tiềm ẩn trong họ như một sự phân biệt giữa thiện ác, chân giả (tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác...).

Tình tự sinh hoạt của dân gian, nếp sống của con người cũng trùng hợp với những lời khuyên răn mọi người nên làm lành lánh dữ trong đạo Phật:

Đừng làm các việc ác
Gắng làm mọi hạnh lành
Giữ tâm ý trong sáng
Ấy lời chư Phật dạy
……….

Tấm lòng của người dân quê chỉ đơn sơ có vậy, nhưng luôn thấm nhuần như cây cỏ thắm sương mai, như ruộng đồng được tưới tẩm bởi nắng sớm sương chiều, hay trăng sao vẫn vằng vặc muôn đời ...

Hay như chuyện: Cây đa bến cộ còn lưa ... vậy.



Trần Đan Hà

-------------------------

Tài liệu tham khảo:
- Văn học Dân gian tỉnh Quảng Trị.
- Pháp Cú Kinh.
- Đường Thi.

Thứ Hai, 23 tháng 5, 2011

Mưa và Lá

Niềm vui của mưa là được đùa giỡn với những chiếc lá. Mưa không bao giờ nghĩ rằng một ngày nào đó những chiếc lá sẽ rời cành. Mưa cứ vui đùa một cách hồn nhiên. Mưa lăn dài trên những đường viền của lá. Mưa đọng lại thành từng giọt nơi đầu lá. Mưa chơi trò chơi trốn tìm với lá. Mưa thấm vào lòng đất, len lõi vào rễ và xuất hiện lại trên bề mặt của lá trong những lúc trời nóng bức. Khi nào lá cần thì mưa có mặt. Mưa thương lá nhiều lắm và lá cũng vậy. Lá luôn chào đón mỗi khi mưa xuất hiện. Lá nâng mưa trong lòng. Lá giữ mưa lại trên tay của mình thành từng giọt. Lá cho mưa thể hiện hết tất cả vẻ đẹp của mình đặc biệt là khi có những tia nắng mặt trời chiếu vào.

Và nỗi buồn của mưa xuất hiện vào một ngày đầu thu. Ngày mà những chiếc lá bắt đầu đổi sang màu vàng, báo hiệu rồi đây lá sẽ không còn ở trên cành. Mưa biết chỉ trong một thời gian ngắn nữa thôi mưa sẽ không còn thấy lá. Mưa buồn. Nỗi buồn của mưa da diết mặc dù lá vẫn còn đó.

Bấy giờ là cuối thu, cái gì đến rồi sẽ đến. Những chiếc lá từ từ lần lượt ra đi. Rừng cây trơ trụi. Nỗi buồn của mưa cứ tăng dần theo thời gian. Tiếng mưa khóc nức nở. Mưa than thở cho sự ra đi của những chiếc lá:

Lá rụng lá về đâu
Để cho mưa khóc sầu
Trời đông thêm lạnh lẽo
Xám ngắt chỉ một màu.

Mưa tìm lá khắp nơi. Mưa thấm vào lòng đất sâu. Mưa hóa thành hơi bay lên tận bầu trời cao xa. Mưa tìm lá trong những cụm mây. Mưa thất vọng. Mưa đau khổ vì lá vẫn bật tâm, mất dạng. Mưa kêu gào ngày đêm cho sự ra đi của lá. Tiếng của mưa bây giờ mang theo một nỗi buồn vô tận… Nhưng mưa nào có biết lá vẫn còn đó. Lá vẫn đang có mặt cho mưa. Sự biểu hiện của lá là vô cùng. Chính nỗi bất an và nhớ thương của mưa đã che đi sự có mặt của lá, đã làm cho mưa không thấy được những biểu hiện khác của lá. Lá luôn muốn nói cho mưa biết rằng: “lá đang ở đây, lá đang ở đây”. Lá đang ở nơi mà mưa vừa mới đi qua. Sự biểu hiện mới của lá là đất, là cụm mây… và những nhựa sống trong cây đang chờ xuân đến để tuôn dậy.

Khi xuân đến mưa sẽ thấy biểu hiện của lá một cách rõ ràng hơn với những thế hệ tiếp nối tươi trẻ và đầy sức sống. Lá biết nếu mưa chưa hiểu điều này, thì mưa sẽ vẫn tiếp tục đau khổ khi những biểu hiện mới của lá không còn. Vì vậy lá đã gửi một thông điệp đến cho mưa.

Xuân đến, thông điệp của lá được hát lên từ những chiếc lá non tràn đầy nhựa sống:

Lá không về đâu cả
Sự sống lá bao la
Trong mưa đang có lá
Lá hiện bầu trời xa.
Khi nhận được thông điệp mưa rất vui mừng. Mưa không còn buồn đau khi thấy lá lìa cành nữa. Mưa biết trong mưa cũng đang có lá. Mưa chỉ cần nhìn sâu vào chính mình, là mưa sẽ thấy được sự có mặt của lá. Sự có mặt của mưa đã nói lên sự có mặt của lá. Sự sống của lá bao la, và sự sống của mưa cũng vậy.

Đức, 15.09.2008

PHÁP NHẬT

Thứ Sáu, 20 tháng 5, 2011

Lời Hẹn Ước

Được sống và được yêu thương đó là những điều kì diệu nhất mà con người có được. Hãy quý trọng những gì bạn đang có, đừng để đến khi không còn nắm giữ được nó, bạn sẽ thấy hối tiếc. Câu chuyện tình buồn, nhưng nó lại nhắc cho ta lý do vì sao ta phải sống... để được yêu thương!

Vào một buổi chiều đẹp trời chan hòa gió và nắng, chàng trai và cô gái đã vô tình gặp nhau khi đang cùng đi dạo trên hành lang ở một bệnh viện. Ngay từ giây phút đầu tiên ánh mắt họ chạm nhau, hai trái tim non trẻ bỗng chốc đập loạn nhịp, tiếng sét ái tình đến với họ trong một hoàn cảnh thật trớ trêu.

Cả hai cùng đang lâm bệnh nặng không có cách nào cứu chữa được. Họ đọc trong mắt nhau cả một sự tuyệt vọng vô bờ bến. Có lẽ vì cùng trong một hoàn cảnh nên dù chỉ mới nói chuyện nhưng dường như đã có cảm giác quen thuộc như hai người bạn đã quen từ lâu.

Và cũng từ đó, những ngày tháng ở trong bệnh viện họ như hai chiếc bóng không xa rời nhau, ngày ngày cùng nắm tay ngắm mặt trời mọc, rồi chiều xuống ngắm cảnh hoàng hôn rực rỡ. Hai trái tim đang yêu như được tiếp thêm sức mạnh tràn ngập hạnh phúc và hy vọng, họ không còn cảm thấy bi quan và tuyệt vọng về cuộc sống nữa...

Cuối cùng cũng đến một ngày chàng trai và cô gái cùng được thông báo rằng bệnh tình của họ đã trở nên rất nguy kịch, không còn khả năng cứu chữa nữa, họ chỉ còn đếm sự sống bằng từng ngày từng giờ. Bệnh viện cũng bất lực trả họ lại về cho gia đình.

Đêm cuối cùng trong bệnh viện, họ cùng nắm chặt tay nhau không nỡ xa rời, cùng hẹn ước sẽ không bao giờ quên những ngày tháng khó quên ở đây và hẹn sẽ luôn viết thư cho nhau để duy trì liên lạc.

Đó là cách duy nhất để hai trái tim luôn được xích lại gần nhau và cả hai sẽ tiếp cho nhau thêm nghị lực để cùng chiến đấu với sự sống và cái chết đang gần kề. Họ nhìn vào mắt nhau tràn đầy niềm tin và hy vọng...

Cứ thế, ngày tháng chậm chạp trôi đi, những lá thư họ gửi cho nhau vẫn không hề vơi cạn. Từng dòng từng chữ đối với họ đáng quý biết chừng nào, họ động viên nhau, gửi đến nhau những lời yêu thương, hy vọng, những dự định của tương lai, những niềm mơ ước. Cả cô gái và chàng trai đều như quên đi nỗi đau đớn bệnh tật đem lại, họ sống trong hạnh phúc, lạc quan và niềm tin vô bờ...

Nhưng rồi ba tháng sau đó, bệnh tình của cô gái trong phút chốc trở nên nguy kịch, và cô đã lặng lẽ ra đi, trên tay cô nắm chặt lá thư của chàng trai, miệng cô vẫn đọng lại một nụ cười mãn nguyện:

"... Nếu phải đối diện với vận mệnh, đối diện cái chết, em hãy đừng sợ nhé! Hãy đừng lo lắng, đừng sợ hãi! Bởi vì vẫn còn có anh luôn ở bên em, vẫn còn rất nhiều người thương yêu em ở bên em, sẽ che chở cho em, và cùng em vượt qua những chặng đường khó khăn này. Hãy vững vàng lên! Đừng khóc, dù là địa ngục hay thiên đường, chúng mình sẽ không bao giờ xa rời...".

Mẹ của cô gái run rẩy cầm lá thư của chàng trai trên tay cô òa khóc. Bà biết cô đã ra đi rất thanh thản. Ngày thứ hai sau hôm cô gái mất, mẹ cô phát hiện thấy trong ngăn kéo bàn học của cô có một tập thư đã dán tem nhưng chưa gửi. Bức thư trên cùng viết: "Gửi cho mẹ".

Bà run run mở thư, đúng là nét chữ quen thuộc của con gái: "Mẹ thân yêu của con. Có lẽ đến lúc mẹ nhận được lá thư này thì con đã đi rất xa rồi. Nhưng con vẫn còn một tâm nguyện chưa hoàn thành được. Con đã có một lời hẹn ước với một người con trai là con sẽ cùng anh ấy chiến đấu với bệnh tật và cùng nhau vượt qua những ngày tháng cuối cùng này. Nhưng con biết con không thể thực hiện được lời hứa đó. Cho nên sau khi con đi rồi, mẹ hãy thay con tiếp tục gửi những lá thư này cho anh ấy, để anh ấy có thêm nghị lực mà tiếp tục sống, những lá thư này đối với anh ấy rất quan trọng, nó sẽ mang lại niềm tin cho anh ấy. Chỉ cần anh ấy biết con còn khỏe, anh ấy sẽ không từ bỏ con mà ra đi, sẽ còn tiếp tục chiến đấu, tiếp tục sống...".

Nhìn những dòng di thư cuối cùng của con gái, bà mẹ cô gái đã theo địa chỉ trên lá thư tìm đến nhà chàng trai. Vừa vào đến nhà, đập vào mắt bà là tấm di ảnh của chàng trai đặt trên bàn thờ. Trong phút chốc, bà cứ nhìn tấm ảnh đó đứng bất động tê dại.

Một lúc sau, một người phụ nữ bước ra, khuôn mặt tiều tụy khắc khổ, vẻ đau đớn vẫn chưa xóa hẳn trong ánh mắt vô hồn của bà, đó là mẹ của chàng trai. Bà cầm ra một tập thư dày đưa cho mẹ của cô gái: "Đây là những bức thư con trai tôi để lại, nó đã mất cách đây một tháng. Nhưng nó vẫn nói với tôi nó còn có một người con gái cùng cảnh ngộ đang đợi thư nó từng ngày, vẫn đang cần nó tiếp thêm nghị lực để tiếp tục sống. Cho nên những ngày tháng qua, mỗi tuần tôi vẫn thay nó gửi một bức thư đi cho cô gái đó...".

Nói đến đây, mẹ của chàng trai lại nức nở òa khóc. Mẹ cô gái hai mắt cũng ướt sũng từ lúc nào, bà nhẹ nhàng tiến lại choàng tay ôm mẹ chàng trai vào lòng, nghẹn ngào nói: "Bà yên tâm, rồi chúng nó sẽ được gặp nhau trên thiên đường như đúng lời hẹn ước...".

Khuyết danh.

Lãnh trợ cấp

Thứ bảy cười  vui

Một anh già thuộc tuýp “quân tử lông chân, tiểu nhân lông ngực” khệnh khạng đến trụ sở cơ quan An Sinh Xã Hội địa phương để xin hưởng trợ cấp bảo hiểm sức khỏe của chính phủ. 
Cô thư ký muốn xem bằng lái xe để xác nhận tuổi hạc, vị bô lão này lục hết túi trên đến túi dưới, mới hay mình đã bỏ quên cái bóp (ví) ở nhà, đành xin lỗi để về nhà lấy và trở lại làm thủ tục sau. Ngẫm nghĩ một chút cô thư ký nói:
- Thôi khỏi, ông vui lòng cởi nút áo sơ mi của ông đi.
Vị bô lão tưởng tai mình nghễnh ngãng nghe lầm nên hỏi lại, cô thư ký xác nhận:
- Thấy ông đi đứng không được thoải mái, nên tôi linh động, xin ông cứ làm theo lời yêu cầu của tôi.
Đương đơn (bô lão) không ngại ngùng cởi phanh hàng nút trên áo sơ mi đang mặc.
Cô thơ ký liếc sơ rồi phán rằng: 
-Tôi nhận đơn của ông, vì lông ngực của ông bạc phếu, chắc chắn là ông không dưới 65.
Đấng senior citizen (bô lão) mừng quá, bèn hí hửng về nhà và khoe với vợ.
Bà vợ móm mém tiếc rẻ: 
-Phải chi cô ta biểu ông cởi quần, chắc ông được lãnh trợ cấp tàn phế luôn rồi! ha ha!
Bà già thật là láu cá phải không?

B’Ròm phóng tác.

Thứ Hai, 16 tháng 5, 2011

Tấm Vạt Giường (tiếp và hết)

Chuyện của nàng và tôi chưa ai biết hết thì xảy ra vụ tháng tư 1975. Lúc đó, nghe tin dân miền trung chạy rần rần vô nam, ông Cả Bảy kêu tôi, nói :

- Chuyến nầy, mầy đi giùm tao xuống Cần Thơ. Tao có con em mấy chục năm nay theo chồng ở dưới. Địa chỉ nó đây.

Ổng đưa tôi miếng giấy có ghi tên họ, số nhà, tên đường :

- Tao nhờ mầy ôm một số tiền xuống đưa cho tụi nó, biểu tụi nó lo chạy về đây ở với tao sớm sớm cho có anh có em. Có gì cũng còn có nhau còn hơn là đứa một nơi người một ngả, loạn lạc nầy không biết đâu mà rờ. Tao có biểu tụi thằng Hai trại hòm qua ở nhà mầy, vừa giữ giùm nhà vừa coi ruộng luôn. Đừng lo !

… Vậy là tôi lặn lội xuống Cần Thơ tìm người em gái của ông Cả. Bà nầy có sạp vãi ở chợ Cần Thơ, ông chồng là thiếu tá hải quân. Khi tôi tìm ra được bả thì có tin thiên hạ ở Sài Gòn đang chạy di tản, làm dân chúng Cần Thơ cũng rối ren hối hả xuống ghe xuống xuồng tranh nhau đi. Ông thiếu tá hải quân hốt hết gia đình đem lên tàu chiến, kéo tôi theo luôn ! Đứng trên tàu, tôi nhìn đồng ruộng chạy lùi về phía sau mà chết điếng ở trong lòng, không biết làm sao báo tin cho ông Cả Bảy và nhứt là cho Huệ …

… Vậy rồi sau thời gian nằm trên đảo của quân đội đồng minh, tôi định cư ở Mỹ, tiểu bang Cali. Tôi làm công cho một tiệm ăn Việt Nam ở khu Sài Gòn Nhỏ, rửa chén quét dọn lau nhà … Lương lậu không bao nhiêu nhưng được bà chủ cho ở trong một phòng nhỏ nằm cạnh nhà bếp, ở để làm gác-dan cho bả luôn !

Thời gian sau, khi đã ổn định đời sống, tôi có gởi thơ về nhưng không thấy hồi âm. Tôi biết làng tôi nhỏ béo lại nằm tuốt trên vùng Ngọn - gọi là ‘ Ngọn’ bởi vì nằm trên ngọn sông Vàm Cỏ - giáp ranh với đất Cao Miên. Hồi thời trước, trong làng không có nhà bưu điện nên mỗi tuần một lần ông Sáu làm biện trong làng phải đạp xe xuống quận cách đó mười mấy cây số để lấy thơ ở nhà bưu điện đem về để trong nhà làng. Dân chúng cứ tự động đến coi trong đống thơ, cái nào mang tên mình thì lấy, có khi lấy giùm hàng xóm hay họ hàng bạn bè nữa ! Tôi nghĩ chắc bây giờ cũng vậy thôi, thơ tôi gởi không đến tay Huệ thì làm gì có hồi âm được ?

Dầu vậy, tôi vẫn tin tưởng rằng nàng không bao giờ quên tôi, cũng như tôi lúc nào cũng nghĩ tới nàng. Tôi hay nghe mấy người có đọc sách nói ‘Lời thề trăm năm’. Nàng và tôi đâu có thề thốt gì đâu, nhưng câu nói ‘ Tính sao cũng được’ và cái mỉm cười tiếp theo sau đó của nàng ở đường lên chùa hồi tôi ngỏ ý xin cưới … tôi đã khắc ghi vào lòng. Như vậy, chẳng phải là một ‘ Lời thề trăm năm’ hay sao ?

Nhứt định tôi sẽ trở về Việt Nam để cưới Huệ. Để hai đứa cùng nằm chung một vạc giường, cái vạc giường đương bằng thanh tre già chuốt giẹp giẹp, nằm vừa êm vừa mát. Để thấy cái mà mấy người biết đọc sách gọi là ‘ Hạnh phúc lứa đôi ’ đối với tôi, nó chỉ võn vẹn là sự sung sướng được chia đôi với người mình thương một tấm vạc giường … Mà muốn được vậy, tôi phải có tiền. Vậy là tôi để dành tiền, cắc ca cắc củm !

* * *

Nhờ hỏi thăm mấy người có về Việt Nam nên tôi đã ước lượng được số tiền cần thiết để làm đám cưới và để hai vợ chồng tôi có một số vốn làm ăn. Vậy mà phải năm năm sau tôi mới có tàm tạm đủ ! Chừng đó, tôi mới dám ‘ lên kế hoạch’ : nhờ ông Cả Bảy làm chủ hôn bên đàng trai, rước dâu về nhà của ổng, đãi đằng hai họ ở đó, xong rồi tôi chèo xuồng đưa cô dâu về nhà bên kia sông để tôi khoe với nàng tấm vạc giường mà tôi sắm cho hai đứa, từ hơn sáu năm nó vẫn nằm chờ…

Ngồi trên máy bay về Việt Nam, trong đầu tôi sắp xếp. Trước tiên là về nhà tôi để nghỉ ngơi cho tỉnh mỉnh. Sáng hôm sau sẽ đi thăm ông Cả Bảy, còn xế chiều thì qua nhà nàng vì giờ đó nàng mới từ lò gạch về nhà, tôi sẽ bất thần bước vô nói lớn : « Huệ ơi ! Huệ ! Anh về rồi nè ! ». Tưởng tượng đến đó, tôi bỗng ứa nước mắt ! Đầu óc tôi tự nhiên sao mù mờ. Làm như bao nhiêu năm nay tôi chỉ chờ có như vậy ! Tôi thấy tội nghiệp tôi, tội nghiệp nàng...

* * *

Tôi xuống xóm chợ nhờ một chị chèo xuồng mướn đưa tôi sang sông.

Khi xuồng vừa cặp vô cây cầu ván thì có con chó chạy ra sủa râng, rồi hai ông bà già từ trong nhà bước ra dòm. Té ra là chú thím Hai Lưa hồi xưa thủ trại hòm của ông Cả Bảy ! Chú Hai nhìn ra tôi ngay. Ổng la lên :

- Trời đất ! Mầy còn sống hả ? Ở đâu mà về vậy ?

- Dạ ở Mỹ.

- Cha…xa ớn há !

Rồi chú lật đật vừa la chó vừa bước xuống cầu phụ tôi đem hành lý lên. Trước nhà thấy có phơi chiếc chiếu với hai ba cái gối. Trong nhà vẫn như xưa, cái giường gỗ vẫn nguyên chỗ cũ với tấm vạc giường tôi đem về từ trong Xóm Mới. Chỉ có thêm là hai cái võng nằm song song gần đó, còn thì bàn ghế tủ..v.v…không có gì thay đổi. Tôi xúc động đến nghẹn lời. Chú Hai nói :

- Mầy uống miếng trà rồi nằm võng nghỉ lưng. Trong làng tưởng mầy chết rồi chớ, đâu dè … Để tao kể mầy nghe …

Vậy rồi chú nằm trên võng cạnh tôi, vừa hút thuốc vừa kể :

- Hôm mầy đi Cần Thơ, cha con tao theo lời ông Cả biểu, thay phiên nhau qua đây giữ nhà giữ ruộng. Kế đó, tụi nó - tụi cách mạng ớ ! – tràn vô làng, bắt hết hội đồng xã, bắt luôn ông Cả Bảy trói bằng kẽm gai thành một dọc, chở đi mất. Rồi tụi nó chiếm hết, nhà cửa đất đai ruộng vườn, đuổi tụi tao ra để lấy trại hòm. Nhờ có cái nhà của mầy mà tụi nầy dọn qua ở tạm. Tao và hai thằng con tao cất thêm cho cái chòi giữ ruộng rộng ra để để đồ đạc của tụi tao và để hai thằng con tao có chỗ hành nghề thợ mộc của tụi nó. Hai thằng nầy coi vậy mà gan ! Tụi nó vượt biên rồi định cư ở Úc. Bây giờ, tụi nó có xưởng mộc ở bển, coi bộ làm ăn khá ! Thấy lâu lâu gởi tiền về nhờ thằng bạn tụi nó ở thành phố chạy Honda lên đưa ! … À ! Mầy biết hông ? Tụi cóc cắn cách mạng có kêu tao về trại hòm làm cho tụi nó, tao đấm thèm ! Mầy nghĩ coi : trại hòm mà cũng bày đặt trương biểu ngữ đề ‘ Hạ quyết tâm hoàn thành tốt kế hoạch của Nhà Nước ’. Mẹ ! … Hòm chôn người chết mà cũng vô kế hoạch nữa thì khùng hết nước nói ! Còn chuyện nầy chắc mầy chưa biết : con Huệ, con bà Năm Căng …

Hai tiếng ‘ Con Huệ ‘ làm tôi giật mình. Tôi nhỏm dậy, lắng tai nghe. Chú nói tiếp :

- Mấy tháng sau giải phóng, không biết nó nghe lời ai mà ôm gói xuống thành phố nói kiếm việc làm rồi lặn mất luôn cho đến năm ngoái đây, nó trở về mà đi bằng xe hơi nhà có tài xế, trên băng sau có người đàn ông có vẻ ông chủ. Mầy biết, trong làng chỉ có thằng Cói gia nhân của ông Cả Bảy là được ổng sắm cho chiếc Honda để đưa ổng đi đây đi đó, chớ đâu có ai có xe hơi. Vì vậy, khi con Huệ đi xe hơi thẳng vô xóm Lò Gạch là thiên hạ để ý. Bà Năm Căng kể lại nói bả nhìn nó không ra, tưởng là một bà nhà giàu nào đó đi lầm nhà ! Chừng nó xưng tên, mẹ con nó và bầy em nó ôm nhau khóc làm hàng xóm chạy qua mừng cũng rớt nước mắt. Nó đem cho má nó hai bao đồ rồi nhét trong túi áo má nó một cộc tiền. Sau đó, nó chỉ nói được có mấy tiếng ‘ Con lạy má ! Con lạy má !’ rồi vừa khóc vừa chạy vội ra xe lên ngồi cạnh ông người á-đông ở băng sau, tài xế rồ máy chạy ào đi gấp. Từ đó tới giờ không có tin tức gì hết !. Còn đồ nó cho má nó toàn là tơ lụa mắc tiền nằm kín trong từng bao ni-long có in nhiều chữ tàu. Thầy Ba trên chùa đọc rồi nói đó là sản phẩm cao cấp của Thượng Hải …

Tôi ngả người nằm xuống võng mà nghe lùng bùng hai lỗ tai, chết điếng ở trong lòng. Chú Hai Lưa hỏi :

- Mầy còn nhớ con Huệ hông ?

Tôi ‘ dạ ‘, tiếng dạ bị nước mắt trào lên chận ngang. Tôi nuốt xuống mà nghe miệng mồm đắng chác. Không kềm được nữa, tôi đưa hai tay lên bụm mặt. Chắc chú Hai Lưa thấy, hiểu, nên nghe chú tằng hắng một tiếng rồi làm thinh …

* * *

Trên máy bay trở về Mỹ, tôi nhìn qua cửa sổ thấy nhà cửa ruộng đồng cây cối mờ lần mờ lần rồi mất hút … mà tôi nghe buồn rười rượi. Ở tuốt dưới đó, trong một làng quê nằm xa mút trên vùng đất Ngọn, tôi đã bỏ lại một tấm vạc giường, tấm vạc giường tưởng để nằm chung với người con gái nhà quê mà tôi thương, đâu ngờ chuyện hai đứa chưa kịp thành duyên thành nợ thì nàng đã như chiếc xuồng bỏ bờ mà trôi theo nước, đành đoạn trôi theo nước …

Mối tình dành riêng cho nàng mà tôi giữ miết ở trong lòng từ bao nhiêu năm, giờ nghĩ lại sao thấy quá khù khờ ! Dầu vậy, tôi vẫn muốn gặp nàng, gặp một lần thôi, để chỉ hỏi có một câu : « Tại sao ?... Tại sao ? … Tại sao ? … »

Nghĩ đến đó, tự nhiên tôi trào nước mắt …


Tiểu Tử

Thứ Bảy, 14 tháng 5, 2011

Tấm Vạt Giường

Tiểu Tử

Hồi đó, tôi làm mướn cho ông Cả Bảy. Mấy ngày đầu, ngày nào cũng chèo xuồng qua bên kia sông để giữ ruộng cho ổng. Hồi ổng kêu tôi làm việc cho ổng, ổng nói : « Hổng có gì, nhưng có mặt mầy ở bển tụi nó không giám phá lúa ! ». Ổng nói ‘ phá’ để tránh nói ‘ ăn cắp’ nghe…nặng lỗ tai !

Mà thiệt ! Công việc hổng có gì gọi là nặng nhọc. Tôi treo võng giữa hai cây gáo lớn cạnh bờ sông, rồi nằm tòn ten trên đó ca tới ca lui mấy câu vọng cổ, lâu lâu trèo lên cây gáo ngồi nhìn ruộng lúa minh mông kéo dài tới rừng tràm nằm phía trong xa, xa cỡ đôi ba dậm hú. Đó là chiều sâu. Còn chiều ngang là nằm dài theo con sông Cái, có con rạch No làm ranh phía trên, chỗ tôi treo cái võng, và con rạch Bù Xu làm ranh phía dưới. Từ rạch No muốn nhìn thấy rõ rạch Bù Xu phải xè bàn tay đưa lên ngang mày che bớt ánh sáng ! Nói như vậy, để thấy ruộng ông Cả Bảy lớn biết ngần nào…

Lần đầu tiên đi với ông Cả Bảy qua ruộng để ‘ nhận việc ’, thấy minh mông thiên địa như vậy, tôi hết hồn, nói :

- Trời đất ! Mút chỉ như vậy, mình con coi sao thấu !

Ông Cả Bảy cười khì khì :

- Tao chỉ cần mầy qua bển cho có mặt hằng ngày chớ đâu có biểu mầy đi

đánh lộn với tụi lưu manh đâu ! Cái lũ đó hể thấy có người canh ruộng là tụi nó rút đi chỗ khác hè !

Ngừng một chút để suy nghĩ rồi ổng nói :

- Tàm tạm vài bữa rồi tao cho đám thằng Hai Lưa ở trại hòm qua cất cho mầy cái chòi nhỏ có tháp canh cao phía trên, để có chỗ cho mầy đụt mưa đụt nắng.

Có lẽ thấy tôi còn…ngơ ngơ nên ổng nói tiếp :

- Trên tháp canh sẽ có cái ống tre lớn làm cái mõ. Hễ mầy thấy có bóng người vô ruộng thì mầy cứ gõ mõ liên hồi là nó chạy. Hiểu chưa ?

Vậy là ít lâu sau, tôi có cái chòi tranh vách lá, có chỗ để treo võng, có chỗ để nấu cơm, phía trước có cây cầu ván chờm ra sông để tắm gội…

…Qua mùa lúa đó, ông Cả Bảy kêu tôi, nói :

- Tao thấy mầy tuy côi cút một thân một mình mà làm việc siêng năng nên tao thương. Tao cho mầy một miếng đất bên ruộng để mầy cất nhà rộng rộng, còn lo cưới vợ nữa chớ !

Vậy rồi mấy hôm sau, ổng dẫn nhóm chú Hai Lưa trại hòm qua ruộng của ổng, đo đạc cặm nọc để cho tôi miếng đất nằm cạnh vàm rạch No, còn chỉ chỗ cho chú Hai Lưa cất cho tôi cái nhà nền đất nóc tôn vách ván nữa ! Tôi cảm động nghẹn lời, ấp úng nói mấy tiếng cảm ơn mà cũng không tròn chữ tròn câu…Ông Cả cười cười :

- Mầy lo đốn cây làm rào dậu, trồng trỉa cho thành khoảnh đi, rồi tao kiếm cho mầy một con vợ !

Nói xong, ổng cười ha hả, khoái chí !

…Ông Cả Bảy có hai người con trai đi học bên tây rồi ở luôn ở bển. Từ ngày bà Cả nằm xuống, ổng vẫn sống cu ky một mình trong cái nhà sàng tổ chảng nằm cạnh trại hòm và trại cưa của ổng. Ổng thôi làm cả trong ban hội tề từ lâu nhưng trong làng vẫn gọi ổng là Cả. Nghe nói ổng ‘ quen lớn ’ dữ lắm, thấy mấy ông Quận ông Tỉnh thường ghé nhà ổng chơi hay cùng đi bắn le-le … Hồi tôi tới tuổi đi quân dịch, ổng nói : « Mầy yên tâm lo canh ruộng, còn vụ nầy, để tao lo ». Vậy rồi mươi hôm sau, ổng trao cho tôi tờ hoãn dịch !

… Cất nhà xong, chú Hai Lưa vỗ vai tôi, nói :

- Tao có một cái giường đôi bằng gỗ không xài, để tao chở qua cho mầy. Có điều là nó chỉ còn có mấy thanh ngang chớ không có tấm vạc giường, tại mấy thằng con tao nó lấy cưa ra làm sạp cho ghe của tụi nó. Mầy chịu khó đạp xe vô Xóm Mới nói thằng Ba Kiên đương cho cái vạc bằng tre, rẻ hơn cái vạc gỗ mà nằm lại êm hơn gấp bội.

Ngừng một chút rồi ổng vò đầu tôi, nói :

- Chừng cưới vợ, nhớ cho tao nhậu với nghen !

Tôi nói ‘ Cám ơn chú’, lí nhí nghe chừng không rõ lắm !

… Cái gường đó ráp vô rồi thấy rộng rinh. Mình tôi ngủ thì cần gì đến tấm vạc ? Vậy là tôi thả lên hai tấm ván đủ cho tôi nằm, sung sướng vì nghe thẳng lưng hơn nằm võng !

Tôi ngủ không có tấm vạc giường như vậy cho đến hết mùa lúa năm đó thì tôi gặp ‘ Nàng’… Cũng do Trời xui Đất khiến !

* * *

Nàng tên là Huệ, mồ côi cha, con của bà Năm Căng ở xóm Lò Gạch. Nàng làm công cho lò gạch ông Tám Tiếu. Nhờ đi chở gạch để ông Cả cho sửa lại cái đầu bờ kè trước nhà nên tôi gặp nàng. Gặp là tôi hạp nhãn liền ! Trời ! Con gái nhà quê gì mà nước da trắng bóc, còn thân hình thì cân đối thon thả kèm theo tướng đi lượng là cứ bắt người ta phải nhìn theo !

… Vậy rồi nàng và tôi quen nhau. Vậy rồi, ngày một ngày hai, tôi đạp xe đến lò gạch. Không có gì : chỉ cần gặp nàng để nói đôi ba câu không đầu không đuôi, rồi chèo xuồng về nhà bên kia sông, trèo lên vọng gác ngồi ngẩn ngơ suốt buổi !

… Vậy rồi, tôi nghĩ đến tấm vạc giường ! Vậy rồi, tôi đạp xe vô Xóm Mới đặt chú Ba Kiên đương cho tấm vạc giường bằng tre. Tuần lễ sau, tôi cuốn tròn tấm vạc chở về nhà trải lên cái giường gỗ, nhìn nó mà nghe lòng phơi phới. Bởi vì đó là lần đầu tiên tôi sắm một món đồ tuy không có giá trị gì nhiều nhưng lại mang đầy ý nghĩa …

… Để tránh tai mắt, tôi và nàng thường hẹn gặp nhau ở đường lên chùa vì đường đó vắng người và có mấy bụi tre lớn giao tàn che nắng. Hai đứa đứng nói chuyện ‘ trên trời dưới đất’ cả canh, nàng hay cầm lấy cành tre non đầy lá vươn ra cạnh chỗ nàng đứng, lắc qua lắc lại như để đánh nhịp khi nàng nói, mắt nàng nhìn bụi tre, nhìn con dốc lên chùa chớ ít khi nhìn tôi. Vậy mà sao tôi vẫn nghe lòng phơi phới như được nàng nhìn thẳng vào mắt !

… Bây giờ thì rõ ràng tôi đã thương nàng, càng ngày càng thương đậm ! Mà giữ riết trong lòng thì ấm ức quá đi ! Chắc phải nói ra cho nàng biết, rồi ra sao thì ra ! Vậy rồi một hôm đứng cạnh bụi tre đã thành quen thuộc, tôi làm gan nói :

- Huệ à ! Anh nói thiệt, Huệ đừng giận nghen ! Anh thương Huệ quá rồi Huệ à !

Nàng bỗng quay sang nhìn tôi, tay vẫn còn vin cành tre non, hỏi bằng một giọng nhẹ như tiềng gió trong lùm tre trước mặt :

- Vậy sao ?

Chỉ có hai tiếng nghe ngơ ngớ kỳ kỳ như vậy mà tôi lại thấy như là một sự chấp nhận ! Tôi bước lại gần nàng, nàng vẫn nhìn vào mắt tôi, cập môi mấp máy như muốn nói gì mà hai vành tai ửng đỏ. Đúng lúc đó, tôi hửi được mùi con gái của nàng làm tôi choáng váng ngầy ngật. Trời ơi ! Tôi muốn ôm đại nàng để siết chặt lại trong tôi, bởi vì chỉ có làm như vậy tôi mới nói được tôi thương nàng biết ngần nào … Nhưng tôi lại sợ làm ẩu, rủi nàng không hiểu rồi giận rồi vùng vằng bỏ đi tuốt thì chắc tôi … chết quá ! Tôi ráng kềm tôi lại, nuốt nước miếng mấy lần mới nói được :

- Huệ à …

Nàng ‘ dạ’, tiếng ‘dạ’ nghe như chờ đợi. Nàng không còn nhìn tôi mà quay về với cành tre non. Lần nầy, nàng bứt từng chiếc lá tre rồi bỏ rơi xuống đất, giống như nàng đếm lá !

- Huệ à ! Anh muốn xin cưới Huệ …

Nói tới đó tôi bỗng nghe … hụt hơi ! Nàng im lặng bứt từng chiếc lá … Một lúc, tôi hỏi :

- Mà Huệ có ưng không ?

- Biết đâu nà !

Tôi ráng sức nói một hơi :

- Anh làm công cho ông Cả Bảy. Anh có nhà có đất ở bên kia sông. Anh được hoãn dịch không phải đi lính. Anh sẽ nhờ ông Cả đánh tiếng qua má của Huệ để xin cưới. Mà Huệ phải cho anh biết coi Huệ có ưng hay không, cái đã !

- Ờ … Thì vậy !

Rồi, có lẽ thấy câu trả lời không mấy rõ nên nàng nói thêm :

- Tính sao cũng được !

Tôi mừng quá, nắm đại bàn tay nàng vừa lắc vừa cám ơn rối rít ! Nàng bỗng quay qua nhìn tôi, mỉm cười. Trời ! Cái cười của nàng sao mà đẹp hết nói ! Tôi như bị hốt hồn, cầm chắt bàn tay của nàng mà tưởng chừng như đang cầm cây sào cắm xuống lòng rạch để giữ cho xuồng đừng theo con nước mà bỏ bờ …

Đêm đó, trải chiếc chiếu trên tấm vạc giường, tôi nằm lên mà nghe mát rượi. Tôi nghĩ : rồi đây, hai đứa sẽ nằm chung một vạc giường. Chỉ bao nhiêu đó thôi cũng đủ làm tôi sung sướng đi vào giấc ngủ. Cuộc đời sao dễ thương quá hổng biết ?

(Còn tiếp)

Chủ Nhật, 1 tháng 5, 2011

Chuyện Một Vị Sư Ở Chùa Hương

Chuyện Một Vị Sư Ở Chùa Hương
Đào Văn Bình  
Người ta truyền tụng rằng tại Nam Thiên Đệ Nhất Động có một vị sư tu hành đắc đạo. Có lúc sư ngồi thiền cả tháng, không ăn không uống, không lay động để thể hiện trí tuệ dũng mãnh của Phật.
Có lúc ngài tụng Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Pháp Hoa, Kinh Viên Giác…tiếng như sư tử hống, vang vọng cả sơn lâm để thế gian có thể nghe rõ lời kinh, để thể hiện lòng từ bi của Phật. Có lúc đi đứng, nằm ngồi giữ nghiêm giới luật, từng động tác, từng cử chỉ đều giữ gìn chánh niệm để thể hiện tính trang nghiêm của chư Phật. Có lúc ngài thị hiện thành người chèo đò đưa khách thập phương hành hương, thỉnh thoảng nói vui một vài câu Phật pháp làm tỉnh ngộ lòng người. Có lúc ngài biến hóa thành một cậu bé luẩn quẩn ở bến đò, nhưng nói ra câu nào cũng khiến các cụ tấm tắc khen thầm tại sao có người uyên thâm Phật pháp đến như vậy. Phải chăng đây là Thiện Tài Đồng Tử tái sinh? Có lúc ngài thị hiện thành một cô gái xinh đẹp bán đồ kỷ niệm ở Bến Đục. Người vừa đẹp vừa trang nghiêm, tính tình lại lễ độ, hòa nhã, vui vẻ. Khách hàng nào có trả giá cô cũng chẳng kèo nài. Thảng hoặc nếu có ai không đủ tiền cô cũng vui vẻ bán để “tạo phúc duyên”. Những ai không có tiền mà ham thích đồ kỷ niệm như tượng Phật, chuỗi Bồ Đề cô cũng biếu không và mỉm cười nói “Khi nào có tiền ông/bà trả tôi cũng được” khiến các cụ cứ tấm tắc khen thầm phải chăng đây là Tiểu Long Nữ hóa hiện? Có lúc ngài thị hiện thành một gã chuyên giết thú rừng để làm đồ nhậu, món ăn chơi khóai khẩu, bày bán ngay trước bến đò để giáo hóa những kẻ đang hành nghề sát sinh, tàn phá núi rừng cây cỏ và làm ô uế cửa Thiền.
Một ngày kia khi sư đang tọa thiền thì một người nhảy vào, túm lấy vai sư nói:
-Thầy xem tôi có xấu không? Tôi rất khổ vì người đời nói tôi xấu!
Đây là một ông chân tay vặn vọ, khẳng khiu, da nhăn nheo, tóc thô, mắt to mắt nhỏ, tai nhọn như tai dơi, răng khấp khểnh chìa ra ngòai, môi thâm và trề ra như cái lưỡi thứ hai trông giống như Quỷ Dạ Xoa. Nghe hỏi vậy sư hiền từ đáp:
-Có những người xấu gấp ngàn vạn lần ông. Ông chẳng có chi gọi là xấu cả.
Nghe nói thế ông xấu kia vặn hỏi:
-Thầy thử nói xem những người kia xấu như thế nào?
Sư chậm rãi đáp:
-Những kẻ có tiền của nhưng không phụng dưỡng cha mẹ. Những kẻ tham tài phụ ngãi. Những kẻ giàu nứt đố đổ vách nhưng không hề bỏ một xu cứu giúp người nghèo khó. Những kẻ khích bác người đạo hạnh, khinh chê Tam Bảo, đố kỵ với người xả thân cứu đời, vô tài nhưng lại có máu ghen tị. Những kẻ hay đâm thọc, ngồi lê đôi mách, thêu dệt, bịa đặt tin để gây chia rẽ. Những kẻ chuyên loan truyền tin xấu, chê bai dè bỉu thành qủa của người khác. Những kẻ ăn chơi đàng điếm, trụy lạc làm băng họai xã hội, buôn bán, chuyển vận xì ke ma túy làm tiêu ma thế hệ trẻ. Những kẻ lười biếng ăn bám xã hội, sống trên mồ hôi nuớc mắt của kẻ khác…tất cả những người này mới xấu…chứ ông có gì gọi là xấu đâu?
Nghe nói vậy ông xấu đó lạy tạ sư rồi lui ra. Khi bóng ông vừa khuất thì một người khác hung hăng bước vào. Ông này ai nhìn thấy đều khiếp vía. Ông ta cao lớn dềnh dàng, mặt sơn trắng sơn đen vằn vện như những tay đấu vật ở Hoa Kỳ. Tóc ông ta dựng đứng và tua tủa như những chiếc đinh nhọn. Hai tai ông ta đeo lủng lẳng hai chiếc còng sắt số tám. Lỗ mũi ông ta móc một chiếc nanh heo rừng. Mắt ông ta đeo một miếng da màu đen giống như những tên cướp biển chột mắt. Cổ ông ta xâm trổ thành hình con cú. Hai vai ông ta quàng chéo hai vòng đạn đại liên như những tay cướp hung bạo ở vùng biên giới Hoa Kỳ- Mễ Tây Cơ trong những phim Cao Bồi. Ông ta cửi trần, ngực xâm trổ thành những con thủy quái gớm ghiếc. Hai cánh tay ông ta xâm hình hai con rắn hổ mang mà hai bàn tay là hai cái miệng của con rắn, cho nên khi ông ta đưa tay ra, giống như hai con rắn muốn mổ người ta. Ông ta không mặc quần mà quấn một chiếc khố bằng da beo. Hai bên đùi xâm hình hai cô gái lõa thể trông giống như yêu tinh, thần nữ. Tay trái ông ta cầm một chiếc móc sắt, tay phải cầm một quả lựu đạn đã mở chốt sẵn. Ông ta đi giày bốt cao cổ của Mễ Tây Cơ với hai mũi giày có gắn hai chiếc đinh ba, đá ai một cái là lòi ruột. Giọng ông ta khàn khàn giống như giọng của Ngưu Ma Vương khiến đàn bà có thai gặp ông sẩy thai, con nít gặp ông ngã ra bất tỉnh.  Ông ta bước tới trước mặt sư, chìa cái móc sắt và quả lựu đạn ra, hỏi:
-Thầy có thấy tôi đáng sợ không?
Nghe ông hỏi vậy, sư điềm nhiên đáp:
-Ổng chẳng có chi đáng sợ cả. Có ngàn vạn người khác còn đáng sợ hơn ông.
Ông ta ngạc nhiên, vặn hỏi:
-Những người đó có gì mà đáng sợ hơn tôi? Thầy nói thử xem.
Sư đáp:
-Những kẻ mặt mũi đẹp đẽ, ăn mặc sang trọng, nói năng ngọt ngào nhưng trong lòng chứa đầy âm mưu thủ đọan luờng gạt hại người, kẻ đó mới đáng sợ. Những kẻ hành tà đạo, tôn thờ thần linh, ma quỷ nhưng nói ra tòan chuyện đạo đức giả hình, biến người nghe thành những con cừu non khờ dại, những âm binh để sai khiến kẻ đó mới đáng sợ. Những kẻ quản trị những công ty lớn, miệng nói trung thành, tín nhiệm nhưng gian tham, lường gạt khách hàng khiến cả trăm ngàn người tán gia bại sản, kẻ đó mới đáng sợ. Những kẻ âm mưu thống trị nhân lọai nhưng nói ra tòan chuyện đạo đức, nhân nghĩa để lừa mị, kẻ đó mới đáng sợ. Những kẻ đứng sau lưng những thế lực đen tối, buôn bán nô lệ, đàn bà, trẻ em, đứng đầu những tổ chức trùm ma túy, kết thành bè đảng Mafia, không chuyện hung ác nào mà không dám làm, những kẻ đó mới đáng sợ. Những kẻ dùng ngòi bút, diễn đàn như gươm súng để đàn áp người cô thế, đầu độc dư luận, bóp méo sự thật, phỉ báng, vu oan giá họa người lương thiện như thế mới đáng sợ. Còn như ông thì chẳng có gì đáng sợ cả.
Nghe nói thế ông đáng sợ nọ chán nản lui ra. Khi ông vừa bước xuống thềm đá thì một cô gái bước vào, tới trước mặt sư, kiêu hãnh hỏi:
-Tôi là Hoa Hậu Hòan Vũ. Thầy có thấy tôi đẹp không?
Sư nhẹ nhàng đáp:
-Cô chẳng có chi đẹp cả. Có cả ngàn vạn người còn đẹp hơn cô rất nhiều.
Nghe nói thế cô gái mở tròn đôi mắt, bực bội nói:
-Hoa hậu hòan vũ là người đẹp nhất trong những người đẹp của thế giới. Thầy nói thử xem những người đẹp hơn tôi như thế nào?
Sư đáp:
-Giữ gìn trang nghiêm giới hạnh là thân đẹp. Ăn ở hiền hòa, thủy chung là nết đẹp. Thấy người ta ngã mà nâng lên, đó là cử chỉ đẹp. Thấy người ta đói cho ăn, rách cho mặc, nghèo túng mà giúp đỡ, đó là tấm lòng đẹp. Phụng dưỡng cha mẹ già, chu cấp người cô quả cô độc, tôn quý các bậc hiền thánh, cúng dường chư tăng ni đó là tâm hồn đẹp. Thấy người ta lâm nguy, sợ hãi mà nói lời an ủi giúp đỡ, đó là ngôn ngữ đẹp. Không một tà niệm nảy sinh, đó là ý đẹp. Thấy người ta u tối, không hiểu biết mà khai mở trí tuệ, cho học hành chữ nghĩa, đó là trí tuệ đẹp. Phá vỡ màn vô minh, hướng dẫn chúng sinh vào con đường an vui, giải thóat, đó là cái đẹp tối thắng mà Trời Đế Thích phải trải hoa tán thán. Tất cả những cái đẹp này cần phải được phát bằng tuyên dương, ghi vào sử sách, lập bia ghi công, dựng tượng để chiêm ngưỡng. Còn cái đẹp của cô là cái đẹp của sự ham muốn, chiếm đọat, xoay vần trong vòng sinh tử luân hồi, ngầm chứa khổ đau, sớm nở tối tàn không có chi đáng tán dương cả.
Khi sư nói hết lời, cô Hoa Hậu Hòan Vũ  rầu rĩ lui ra. Nghe nói sau cuộc gặp gỡ này, sư chống gậy trúc, cứ theo đường lên trời ở trong Động Hương Tích mà đi rồi biến mất, người đời mong muốn gặp lại sư cũng chẳng được.