Chủ Nhật, 19 tháng 6, 2011

Tình Cha

Rời thành phố về đất cũ ở nông thôn, những năm đầu sau 75 đời sống vô cùng thiếu thốn, bữa cơm hàng ngày chủ yếu dưa cà muối mắm. Sáng sáng với chiếc cày trên vai và con bò theo sau đi hai ba cây số làm ruộng. Tranh thủ buổi trưa hoặc chiều trên đường về Cha tôi ven theo suối câu cá, ếch…cải thiện bữa ăn cho gia đình.
Những con ếch đầu mùa to và mập, cả nhà không ai biết làm thịt, cha tôi tự làm lấy, da thì phơi khô căng lên cái lon sữa bò làm trống cho chúng tôi chơi; chỉ cần một chút dầu ăn, mấy trái chuối xanh xắt nhỏ, chút muối, đường đảo qua đảo lại trên bếp, thế là cả nhà có một bữa "thịnh soạn", Cha chỉ gắp một miếng, nhường tất cả cho các con, nhìn anh em chúng tôi ăn một cách ngon lành Cha vui và thỏa mãn lắm.
Sau này khi lớn lên, tôi mới cảm nhận được trong vị ngon của chảo thịt ếch năm xưa là cả tấm lòng bao la của người Cha suốt cuộc đời vì các con.
Giờ đây, cuộc sống đỡ khó khăn vất vả hơn thì Cha lại không còn./.


Thứ Bảy, 18 tháng 6, 2011

NHÂN NGÀY CỦA CHA => GỬI ĐẾN CON YÊU DẤU !

GỬI CON YÊU DẤU

Nếu một mai thấy cha mẹ già yếu,
Hãy thương yêu và thấu hiểu song thân.
Những lúc ăn, Mẹ thường hay vung vãi
Hay tự Cha không mặc được áo quần.
Hãy nhẫn nại nhớ lại thời thơ ấu
Mẹ đã chăm lo tã, áo, bế bồng.


Bón cho con từng miếng ăn, hớp sữa
Cho con nằm trong nệm ấm chăn bông.
Cũng có lúc con thường hay trách móc
Chuyện nhỏ thôi mà mẹ nói trăm lần.
Xưa kia bên nôi, giờ con sắp ngủ
Chuyện thần tiên mẹ kể mãi không ngừng.


Có những lúc Cha già không muốn tắm
Đừng giận cha và la mắng nặng lời
Ngày còn nhỏ, con vẫn thường hay sợ nước
Từng van xin "đừng bắt tắm, mẹ ơi !"
Những lúc Cha không quen xài máy móc,
Chỉ cho Cha những hướng dẫn ban đầu.


Cha đã dạy cho con trăm nghìn thứ
Có khi nào cha trách móc con đâu?
Một ngày nọ khi cha mẹ lú lẫn
Khiến cho con mất hứng thú chuyện trò
Nếu không phải là niềm vui đối thoại
Xin đến gần và hãy lắng nghe cha.

Có những lúc mẹ không buồn cầm đũa
Đùng ép thêm, già có lúc biếng ăn
Con cần biết lúc nào cha thấy đói
Lúc nào cha thấy mệt, muốn đi nằm.
Khi già yếu phải nương nhờ gậy chống
Xin nhờ con đỡ cha lấy một tay
Hãy nhớ lại ngày con đi chập chững
Mẹ dìu con đi những bước đầu ngày.

Một ngày kia, cha mẹ già chán sống
Thì con ơi, đừng giận dữ làm chi!
Rồi mai này đến phiên, con sẽ hiểu
Ở tuổi này, sống nữa để làm chi?
Dù mẹ cha cũng có khi lầm lỗi
Nhưng suốt đời đã làm tốt cho con
Muốn cho con được nên người xứng đáng
Thì giờ đây con cũng chẳng nên buồn.

Con tức giận có khi còn xấu hổ
Vì mẹ cha giờ ăn đậu ở nhờ
Xin hãy hiểu và mong con nhớ lại
Những ngày xưa khi con còn tuổi ấu thơ.
Hãy giúp Mẹ những bước dài mệt mỏi
Để người vui đi hết chặng đường đời.
Với tình yêu và cuộc đời phẩm giá
Vẫn yêu con như biển rộng sông dài.
Luôn có con trong cuộc đời,
Yêu con, cha có mấy lời cho con.

( HUY PHƯƠNG dịch )

Ngày của Cha

Ngày của cha (Father's Day) được tổ chức vào Chủ nhật thứ ba của tháng Sáu. Đây là ngày lễ dành để tôn vinh những người cha.
Bắt nguồn từ Sonora Smart Dodd (người được cha mình nuôi dưỡng khi mẹ cô qua đời). Đến khi trưởng thành, cô mới cảm nhận hết những nỗi vất vả của người cha phải một mình nuôi dạy sáu đứa con nên người, vì thế người cha trong mắt cô là biểu tượng của sự hy sinh, vị tha, bao dung. Cô đã tổ chức ngày của cha đầu tiên ở Washington vào 19-6-1910 (cha của Sonora sinh vào tháng sáu).
Nhưng mãi đến năm 1972 mới được chính thức công nhận và tổ chức lần đầu tại Mỹ.

Người ta ví tình Mẹ ngọt ngào như “chuối ba hương, như xôi nếp mật, như đường mía lau”, thì tình Cha vừa thâm trầm, lắng đọng, dạt dào và rộng lớn bao la. Một tình yêu không diễn tả bằng lời, không biểu lộ bằng những cử chỉ trìu mến thân thương nhưng lại là chỗ dựa vững chắc, là bóng râm che mát, là cánh chim đưa con đi thật xa…


(Nguồn Internet)Hạnh phúc cho bất cứ ai hiện đang còn Cha. Bạn hãy làm một điều gì đó thật ý nghĩa cho Cha mình đi.

Thứ Năm, 16 tháng 6, 2011

LỐI VỀ XÓM NHỎ !


Quê em BIỂN MẶN dừa xanh
Sóng tình HOA BIỂN dổ dành người thương
KIẾP NGHÈO một nắng hai sương
LỐI VỀ XÓM NHỎ gập ghềnh khó đi . . . 

(Bài thơ mang tên những BÀI HÁT)
 



Bài dự thi được giải

Sau những ngày cắp sách đến trường, tôi đã cảm thấy mình trưởng thành hơn. Mới ngày nào, chỉ là một cô bé nghịch ngợm, mà bây giờ, một cô học trò biết suy nghĩ mọi việc một cách chín chắn, người giúp tôi biết được điều đó là thầy cô bè bạn và mái trường Lê Hồng Phong.

Bước vào ngưỡng cửa cấp hai, mọi việc trở nên khác hẳn. Ngày tựu trường ở đây đã để lại cảm xúc xao xuyến trong tôi: Màu đỏ của cờ, của khăn quàng đến các hàng cây, ghế đá và hàng chữ “Mỗi ngày đến trường là một niềm vui” được in ngay ngắn. Chắc có lẽ đó là một lời nhắn nhủ cần thiết đối với học sinh và là khẩu hiệu của trường. Khi bác bảo vệ đánh một hồi trống dài, đó là lúc tôi nhận ra mình đã bước vào một môi trường mới với thầy cô và bạn bè mới. Chính vì điều đó đã xảy ra rất nhiều chuyện với tôi. Nói đến đây, tôi lại nhớ một sự việc xảy ra mà trong trí óc tôi luôn là nỗi buồn đánh nhớ nhất. Tôi là học sinh giỏi trong bao năm qua. Hôm đó chỉ vì ham chơi mà tôi chẳng học bài gì cả, lại bị cô giáo chủ nhiệm gọi lên trả bài, nhưng biết làm sao bây giờ, trong đầu tôi lúc đó không một chữ, tôi đành thành thật với cô. Nhìn nét mặt lúc ấy của cô, tôi đã biết mình có lỗi và thấy mình thật nhỏ bé. Là một học sinh giỏi, lại là lớp trưởng vậy mà tôi đã làm cô thất vọng. Trong sự nghiệp “trồng người” thầy cô quên mình vì những giáo án, cặm cụi với những nét chữ trên bảng để cho chúng tôi có được kiến thức vững chắc. Tôi đã không làm được bổn phận của người học sinh. Lúc đó, tôi muốn nói lời xin lỗi với cô nhưng chẳng làm gì vì mình không đủ can đảm. Tôi sẽ nhớ mãi bài học quý báu này. Cánh cửa ngôi trường Lê Hồng Phong giống như cánh cửa chào đón tri thức, chào đón tương lai. Có những vui buồn, hờn giận nhưng đó là tuổi học trò mà! Nếu không có những tình cảm đó, chắc con người sẽ buồn tẻ lắm. Thật vậy, chúng tôi đã được học nhiều điều bổ ích dưới mái trường, nhận ra điều hay để thông cảm với nhau hơn, tuy có giận nhưng chỉ là những lúc nông nỗi của thời áo trắng. Tôi luôn trân trọng những thứ tình cảm vô cùng đẹp đẽ ấy. Học sinh mà ai lại không có những kỷ niệm đẹp dưới ngôi trường đang học.

Mái trường, thầy cô và bạn bè sẽ là hành trang cho tôi bước vào con đường học vấn. Cảm ơn mái trường này, các thầy cô và bè bạn đã cho tôi có rất nhiều ký ức khó quên. Tôi sẽ mãi ghi nhớ thời gian yêu thương này ./.

Lê Thị Hồng ThắmLớp 7A10 – Trường THCS Lê Hồng Phong
Giải khuyến khích (khối lớp 7)

Chủ Nhật, 12 tháng 6, 2011

Thằng Cuộc

Cuộc là thằng bạn học cùng lớp với tôi từ hồi tiểu học. Chúng tôi học chung với nhau ba năm, từ lớp Ba đến lớp Nhất. Xong tiểu học, khi tôi được học tiếp trung học trên Huế thì Cuộc ở nhà giúp gia đình làm nghề rèn.

Ngày đó, sau khi hiệp định Genève được ký kết, hòa bình tái lập, thì trường tiểu học quê tôi cũng mở cửa trở lại. Cả xã chỉ có duy nhất một ngôi trường ba lớp đó. Ngôi trường này trước kia là ngôi trường huyện, vì huyện lỵ Quảng điền lúc trước đóng tại đây. Chiến tranh tàn phá hết các cơ sở công cộng trong vùng. Huyện lỵ bị phá sập, chùa chiền chung quanh cũng đổ nát, ngôi trường cũ chỉ còn lại chiếc nền cao.

Năm 1956, khi khai giảng trở lại, trường chỉ có các lớp Ba, Nhì, Nhất.

Hiệu trưởng là thầy Thám người thôn Mỹ xá trong huyện, bạn học của cậu tôi. Cậu tôi làm đơn xin cho anh em tôi và đám bạn cùng lứa trong làng vào học lớp Ba, lớp nhỏ nhất của trường. Trước đó, chúng tôi đã được cậu tôi dạy kèm ở nhà cho hai anh em vừa cho lũ trẻ con trong làng cùng học. Sau chừng một năm thì tới ngày trường huyện khai giảng. Cậu tôi lại lo làm giấy chứng chỉ thế vì khai sinh cho chúng tôi đi học, và chỉ vào được lớp Ba, dù nhiều đứa trong chúng tôi đã lớn tuổi.

Tôi thì ngược lại, còn thiếu tuổi, nhưng vì không có lớp nhỏ hơn, ông phải khai thêm cho tôi hai tuổi trên giấy khai sinh để được nhà truờng chấp nhận.

Bởi thế, trong lớp tôi là thằng bé nhỏ nhất, nhỏ cả tuổi lại cả xác. Tôi ốm yếu khẳng khiu. Lớp Ba lại là lớp nhỏ nhất của trường, nên tôi cũng là đứa học trò nhỏ nhất trường. Vì còn con nít quá, nên bạn bè trong lớp chẳng ai muốn chơi với tôi. Chẳng những thế, thỉnh thoảng tôi còn bị tụi bạn chọc ghẹo hoặc ăn hiếp nữa.

Trường có sân rộng, lũ bạn thường đá banh. Nhưng chỉ khi nào không kiếm được đủ người để chia cặp, tôi mới được mấy đứa kia cho vào đá cho đủ. Tôi được tham gia nhưng suốt trận đấu nhiều khi không đá được một lần, bởi trái banh (được bó bằng lá chuối) sắp đến gần chân tôi, chỉ nghe tụi nó dọa, tránh ra, tránh ra, tao đá gảy chân chừ, thì tôi đã vội chạy xa nhường banh cho bọn chúng. Thường thì tôi làm khán giả ngồi coi hoặc giữ đồ cho anh tôi và mấy đứa bạn trong làng. Hạnh phúc nhất của tôi là lúc banh vượt ra ngoài sân, không ai tranh với tôi. Tôi chạy thật nhanh lượm bóng và tranh thủ sút một cú cho đã chân. Mà mấy khi tôi sút trúng trái banh đâu, chỉ thêm cớ cho lũ bạn kia cười đùa, la hét.

Tôi cũng ít khi được chơi căng cù u óc, bởi chơi căng cù phải mạnh tay, đánh cù văng cho xa mới hơn được. Còn nếu thua, thì phải làm ngựa cõng đứa thắng mấy vòng. Sức tôi cõng ai được mà đòi chơi với chúng.

Đã thế tôi còn là đứa trẻ ngọng nghịu. Tôi bị ngọng từ lúc còn nhỏ và tuy rằng mỗi năm tôi đã nói được rõ hơn nhưng cho đến lúc vào lớp Ba tôi vẫn còn ngọng nhiều lắm. Chẳng có câu nào của tôi lại không pha trộn một vài tiếng ngọng. Cho đến năm tôi học lớp Nhì, những tiếng bắt đầu bằng các phụ âm như l, tr, nh… tôi vẫn không thể nào đọc đúng giọng được. Có lần tôi đọc câu cách ngôn: Tiên học lễ, hậu học văn thành „tiên học nghễ, hậu học ăn“. làm bọn bạn và cả thầy giáo cười bò lăng bò càng thiếu đường vỡ lớp. Hồi ấy, từ lớp Nhì học sinh đã được học tiếng Pháp. Đó là môn học khổ sở nhất của tôi vì các mạo từ le, la, les trong tiếng Pháp. La mère thì tôi đọc thành nga me rờ. La francaise thì nó thành tiếng công gô nga ngăng xe gì gì đó chẳng ai hiểu. Thầy giáo thương tôi, sợ tôi buồn, thầy vẫn thường an ủi, khuyến khích tôi. Có lúc thầy làm bộ quên, không gọi tôi đứng lên tập đọc, nhưng lũ bạn quái ác trong lớp lại nhắc thầy, trò Sáu chưa đọc, thế là tôi lại bị thầy gọi lên để cho chúng được một trận cười.

Tôi xấu hỗ và có lúc chẳng còn muốn đến trường nữa. Nhưng cậu tôi an ủi tôi rằng chừng một thời gian rồi tật nói ngọng sẽ hết. Ông khuyên tôi đi theo chú Điếu ra đồng chơi với mấy đứa giữ trâu trong làng, la hét thật to, thì dần dần sẽ hết ngọng. Tôi hy vọng và làm theo lời ông. May mắn là hồi ấy tôi đã không vì xấu hổ mà bỏ ngang việc học.

Vậy mà đến năm lớp Nhì tôi đã có bạn thân để chơi: thằng Cuộc.

Khi kẻng tựu trường chưa đánh, cổng trường chưa mở, lũ học trò tụi tôi thường chơi quanh quất trên con đường cái trước cổng trường. Con đường có nhiều bóng mát từ mấy hàng mít trong nhà vườn của người dân ở hai bên. Chúng tôi tha hồ chơi ù mọi, bắn bi, căng cù… mà chẳng sợ xe cộ. Hồi ấy quê tôi mấy ai đã có được chiếc xe đạp đâu mà sợ xe đụng. Lại nữa nếu có xe, thì người đạp xe từ xa thấy đám học trò đang chơi đã vội bấm chuông inh ỏi rồi. Chúng tôi dừng lại chút xíu, đứng giản ra nhường chỗ cho xe đi qua, ngắm chiếc xe và cả người lái với ánh mắt thán phục, thì còn đâu mà lo tai nạn. Có chăng là mấy o đi chợ, gánh nặng đi ngang sợ thúng mủng quơ đụng đám học trò, chưa tới đã báo động, tránh ra, tránh ra, ơi ới. Đa số họ cũng là những người quen biết trong vùng, cho nên tiếng la, tiếng gọi, tiếng hỏi chào của đám học trò tụi tôi cũng nhộn cả lên một lúc.

Không được chơi với lũ bạn, tôi thường ghé lò rèn của chú thằng Cuộc xem gia đình nó làm nghề. Lò rèn của chú nằm kề cổng trường học, xế bên trái chừng mươi thước. Có lúc ngồi trong lớp cũng còn nghe được tiếng búa đập chan chát inh ỏi dội vào lớp.

Ban đầu tôi đứng khép nép ở ngoài hiên, nhìn lò lửa cháy phừng phực và cánh tay trần vạm vỡ của chú vừa thán phục, vừa lạ lùng. Than trong lò lửa theo nhịp kéo của bể thổi văng bay tung tóe. Những đốm lửa li ti đỏ rực tung ra thật xa, có khi đến tận chỗ tôi đứng. Chú thấy tôi thập thò thì cười hiền bảo tôi cứ vào bên trong mà coi. Thím Cuống, mẹ của Cuộc, kéo bệ thổi lửa, nhưng có khi rảnh rỗi, chưa đến giờ học thì thằng Cuộc cũng kéo bệ phụ chú. Hai ống bệ to như hai cột nhà rường. Mỗi bệ có một cán tay cầm to như cán chỗi. Cuối cán là tấm vải bọc kín sát ống bễ để giữ kín hơi. Thụt bễ nặng lắm. Có lần gặp buổi nghỉ làm của chú nó, thằng Cuộc cho tôi lên ngồi trên lò, kéo thử. Tôi chẳng cách nào nhấc lên được vài tấc. Vậy mà hắn có thể giúp chú Cuống thổi bễ mỗi ngày.

Thằng Cuộc không được bạn bè nể nang ưa thích dù hắn rất hiền. Có lẽ vì hắn ít khi sạch sẽ, mặt mũi thường khi còn dính cả bụi than khi vào lớp. Áo quần hắn cũng lôi thôi lếch thếch. Hắn học cũng chẳng giỏi dang. Hắn to con, hiền hòa nhưng cũng ít đứa muốn chơi chung với hắn. Cũng có thể hắn không có thì giờ để chơi chung với tụi bạn. Hắn thường là đứa vào lớp sau cùng khi tiếng kẻng đánh vào học đã lâu, lúc đó hắn mới chạy vội từ lò rèn vào lớp.

Thằng Cuộc không bắt nạt tôi như nhiều đứa khác. Hắn cũng ít khi cười khi thấy tôi đọc sai giọng, bởi hắn có lúc cũng bị lũ bạn cười khi không thuộc bảng cửu chương. Tám lần chín là sáu mươi hai rồi tám lần mười là chín mươi thì đứa nào lại chẳng ôm bụng cười.

Có lẽ vì vậy mà tôi với hắn dần dần thân nhau hơn.

Tôi ghé lò rèn của hắn thường hơn. Có lúc tôi ghé để xem chú Cuống hùng hỗ với chiếc búa vung xuống thanh sắt đang còn đỏ hừng hực trên đe, có lúc tôi mở lớn mắt coi chú xẻ sắt nhét miếng thép nhỏ vào cho lưỡi dao, lưỡi mác được bén, nhưng cũng nhiều khi tôi với thằng Cuộc loay hoay phía trước sân, dưới gốc cây ổi sẻ, kiếm mấy trái ổi non nhai ngấu nghiến đỡ thèm. Chú thím Cuống, thấy có tôi thường đến chơi với thằng Cuộc, chú thím cũng vui. Thỉnh thoảng tôi mang cho nó vài trái khế của nhà tôi. Cây khế từ bao đời sau bờ ao, sát hàng tre tuy không phải khế ngọt nhưng nhờ Cậu tôi lâu lâu lại bón vôi vào gốc, nên khế không còn chua. Ai ăn cũng thích. Mùa khế có trái, anh em tôi mang theo một ít trong cặp. Và tôi thường dành món quà đặc biệt đó cho hắn.

Vậy mà đã có lúc hắn và tôi giận nhau cả tháng trời.

Một buổi chiều nọ, tôi bị thầy Thám gọi đứng lên đọc bài tiếng Pháp. Vừa đứng lên tôi đã nghe tiếng cười khúc khích của lũ bạn phía bàn sau tôi. Tôi hơi ngạc nhiên vì đã lâu rồi thầy dọa sẽ phạt đứa nào cười tôi đọc ngọng. Từ đó chúng không còn dám trêu tôi ở trong lớp nữa. Trả bài xong, quay lại nhìn chúng để hiểu lý do gì, thì thấy cả bàn đang bưng miệng cười. Mắt chúng dán vào lưng tôi và hình như có vật gì nằng nặng sau chéo áo của tôi. Tôi phát hiện ra đứa nào đó chơi nghịch cột một bình mực sau áo tôi. Tôi giận dữ tìm cách mở ra thì binh mực dây nhiều vết lên áo. Thằng Cuộc nhanh tay lấy lại bình mực. Tôi dong tay cao đứng lên mếu máo “mét“ thầy: Thưa thầy có trò nào cột bình mực làm dớp (nhớp) áo con!

Thầy Thám nảy giờ đã nghe phía dưới có tiếng cười đùa của lũ học trò rồi, nhưng thầy đang bận ghi điểm vào sổ nên chưa kịp hỏi. Giờ nghe tôi thưa, thầy không nói năng gì, tay cầm chiếc thước kẽm, xô mạnh ghế ra phía sau, bước nhanh xuống chỗ tụi tôi.

Cả lớp im phăng phắc. Đứa nào cũng run vì biết thầy đang giận. Thầy ngó qua chỗ áo dơ của tôi rồi lạnh lùng quay hỏi đám học trò phía sau:

- Trò nào vừa chơi?

- Thưa thầy, con. Thằng Cuộc mặt xanh như tàu lá chuối đứng dậy nhận tội.

- Bước lên bảng! Thầy ra lệnh.

Thằng Cuộc mặt cúi gầm bước ra khỏi bàn tiến về phía bàn thầy. Nó đã biết hình phạt sắp chịu đựng: thầy sẽ quất chiếc thước kẽm vào mười ngón tay của nó, chỉ cần ba bốn cái thôi nhưng nhức đến tận xương và cả tuần sau chưa hết nhức. Nhiều đứa đã nếm mùi thước kẽm của thầy, khi viết chính tả sai quá mười lỗi, khi chép bài từ bảng xuống mà sai hay cả khi quên gạch dưới hai chữ cách ngôn mỗi ngày…

Thằng Cuộc lên đến bàn, giọng thầy gắt:

- Xòe hai bàn tay ra, úp lên mặt bàn!

Tôi rùng mình khi thấy thầy khẽ mạnh thước vào mấy ngón tay của hắn. Tôi không biết hắn bị thầy đánh mấy cái, nhưng mỗi lần thầy quất là mỗi lần nó la thét lên.

Nước mắt dàn dụa nó đi về chỗ ngồi. Tự nhiên tôi không còn giận hắn nữa mà lại thấy mình có lỗi. Tôi không dám quay lưng lại nhìn hắn đang khóc rấm rức đàng sau. Tôi cũng không quay qua lũ bạn chung quanh đang bàn tán. Tôi dán mặt vào cuốn vở trước mặt.

Ngày hôm sau, chú Cuống vào lớp xin cho thằng Cuộc nghỉ học. Chú đứng khúm núm ở cửa lớp trò chuyện với thầy Hiệu trưởng. Tôi không nghe hai người nói gì, chỉ nghe chú dạ, dạ… và hai bàn tay chai cứng thô tháp của chú cứ xoắn lấy nhau. Chắc chú lại đang xin lỗi thầy về chuyện thằng Cuộc hôm qua đùa nghịch làm dơ áo của tôi.

Ba bữa sau, thằng Cuộc mới đi học trở lại, nhưng hắn lầm lì và ít nói hơn. Lũ bạn hỏi han hắn còn tôi chỉ dám liếc nhanh mấy ngón tay của hắn. Hắn không nhìn tôi, không trách móc. Tôi cũng không dám trò chuyện với hắn như mọi ngày. Tôi cảm thấy xấu hỗ từ đó tôi không dám ghé vào lò rèn chú Cuống nữa.

Phải đợi cả tháng sau, khi gần ngày nghỉ hè, tôi mới có dịp chuyện trò trở lại với hắn, khi chúng tôi được thầy phân công trực nhật. Hai đứa tôi phải đến sớm quét lớp, lo giặt khăn lau bảng, lau bàn thầy… Thấy tôi không nhích nỗi mấy cái ghế qua chỗ khác để quét, hắn chạy tới giành lấy: Đưa đây tao, mi lo lên ghi ngày tháng trên bảng, chữ mi đẹp hơn.

Chúng tôi làm hòa với nhau từ bữa đó, nhưng hai đứa cũng không hề nhắc đến chuyện cũ.

Chỉ mấy năm sau, chiến tranh lại tràn về vùng quê tôi. Tôi học ở Huế và cứ vài ba tuần vẫn thường đạp xe về làng thăm gia đình. Các anh tôi lần lượt bị gọi nhập ngũ. Xóm làng ngày một thưa vắng. Những lần đạp xe ngang trường cũ, có lúc tôi dừng lại quán nước trước cổng trường nghỉ chân, mua vài đồng kẹo gừng uống nước.

Tôi tạt ngang nhà thằng Cuộc định bụng ghé thăm nó và chuyện vãn đôi câu nhưng khi đến nơi thì tôi sững sờ chỉ thấy một nương khoai không còn dấu vết chi của lò rèn ngày trước. Trở lại quán bên đường hỏi thăm mệ bán nước, mệ bảo chú Cuống dọn đi lâu rồi. Thằng Cuộc thì đã đi quân dịch. Đồng ruộng chẳng ai canh tác, người nông dân không có nhu cầu rèn nhiều như trước. Lò rèn của chú ế ẩm, không đủ sống. Không ai biết chú đi về đâu vì chú không phải cư dân của làng.

Tôi nghe qua rồi thôi, một chút chắc lưỡi tiếc thương cho hoàn cảnh của gia đình chú. Nhưng ngay cả gia đình tôi cũng đang thu xếp để chạy vào thành phố. Các anh tôi lần lượt bị gọi vào quân ngũ. Chú Điếu, người giữ trâu cho gia đình tôi bao năm nay giờ cũng đi lính rồi. Có còn ai ở lại để chăm sóc ruộng vườn nữa đâu mà giữ trâu lại. Con trâu của nhà tôi đành phải bán cho chủ khác. Ngày chủ mới đến dắt trâu là một ngày buồn hiu cho cả nhà. Buổi sáng mạ tôi trộn thêm ít cơm vào đống cỏ cho trâu ăn như bữa ăn giã từ. Mạ vừa vuốt hai má con trâu vừa thì thầm nhỏ to với nó mà nước mắt mạ chảy dài. Cả nhà ai cũng thương nó. Tôi cũng buồn như sắp xa đứa bạn thân. Đã bao năm nó giúp gia đình tôi cày, bừa, đạp lúa... Đã bao năm tôi cỡi trên lưng nó ra đồng nghêu ngao cùng lũ bạn trong làng và chiều về trong khi chúng tôi bơi lội dưới dòng sông hẹp thì nó cũng đầm mình tắm mát chung một bến sông. Nhưng giờ đây gia đình tôi đâu còn ai ở nhà làm ruộng nữa đâu mà giữ nó lại? Ngày chủ mới tới dắt nó đi, từ cậu mạ tôi và cả tôi ngân ngấn nước mắt. Bao nhiêu năm nó sống với gia đình. Con trâu dường như cũng buồn lắm mắt của nó cũng đỏ ngàu, đầy cả nước mắt chứ đâu riêng gì chúng tôi! Nó hục hặc cặp sừng không chịu ra khỏi chuồng khi người chủ mới dắt đi. Cậu tôi vỗ nhẹ vào lưng nó, còn mạ tôi thì khóc òa…

Làng quê thưa thớt vắng vẻ dần, không còn tiếng trẻ con đùa vui trên đường cái như những ngày tôi còn cắp sách đến trường huyện. Trên khuôn mặt người dân ai cũng thoáng vẻ lo âu, vội vã. Chiến tranh lại đến nữa rồi. Nhà cửa vừa xây dựng xong, chưa hết mùi vôi mới lại sắp bỏ mặc cho bom đạn tàn phá. Nhiều ngôi vườn hoang vắng chỉ để trồng mấy dãy khoai lang như khu vườn của gia đình thằng Cuộc mà thôi.

Từ đó tôi lớn lên và trôi theo dòng đời. Tôi không những bỏ làng lên Huế mà còn phải rời Huế vô Nam và giờ đây đang làm khách tha hương nơi xứ lạ. Đêm đêm trong giấc mơ của tôi, quê cũ lại hiện về và hôm qua tình cờ tôi lại gặp Cuộc, thằng bạn học hơn năm mươi năm trước của tôi.

Tôi mơ thấy hắn và tôi đang khoèo mấy trái ổi xanh trên cây ổi trước lò rèn của chú hắn. Tôi nhìn hắn thật lâu rồi bảo:

- Cuộc ơi, tao nợ mi một lời xin lỗi!


Tịnh Ý

Thứ Sáu, 10 tháng 6, 2011

Vẽ Lại

Vẽ lại trên môi, vẽ nụ cười

Ngày tháng ơ thờ đã mấy mươi

Ngồi đây gom lá dưới tàn lá

Để nhớ để thương quá một người


Vẽ lại mi cong, vẽ hững hờ

Không gian lắng đọng mấy vần thơ

Chữ nghiêng đời ngã đầy trang giấy

Khẽ bước chân ai thật tình cờ


Thứ Năm, 9 tháng 6, 2011

THƯ GIÃN CUỐI TUẦN !

Sau một tuần làm việc căng thẳng => Kính mời Quí Thầy Cô, các Anh Chị, và các Bạn
thưởng thức một số Hình ảnh của CỰU HỌC SINH HẢI LONG qua Nghệ thuật điêu khắc
từ QUẢ DƯA HẤU...Hì,hì...
NGUYỄN THỊ MỸ LỆ
CAO THỊ MỸ
LÊ THỊ LÀNH
CHỊ THÙY
HÒANG GIA KẾ
LƯƠNG VĂN NGỌC (NGỌC BỤT)
MAI VĂN THÂN
VÕ VĂN THẮNG (THẮNG GẦY)
DƯƠNG MINH QUANG
CAO HÒANG TẤN
ĐÀO NGỌC TÂM
AI VẬY ? ? ?
MAI CHÍ

Tình Xuân


Gửi cánh hoa xuân ngày thanh tân
Nhận nụ hôn thơm xen mấy vần
Thơ yêu e ấp tình như đã
Đầy ấp trong nhau những ân cần

Mộng những đêm xuân ánh sao rơi
Trăng ghé bên hiên dáng gọi mời
Đôi bóng kề vai hòa nhịp thở
Lịm ngọt môi hôn đến tuyệt vời

Hiện Tượng Lạ xãy ra một lần trong đời mình.

Lịch tháng Bảy, 2011

CN - - -Hai - - -Ba- - -Tư- - - Năm- - -Sáu- - - -Bảy
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -1- - - - -2
3- - - - -4 - - - -5 - - - -6- - - - -7- - - - - 8- - - -- -9
10- - - -11- - - 12- - - 13- - - - -14- - - -15- - - - 16
17- - - -18- - - 19- - - 20- - - - -21- - - -22- - - - 23
24- - - -25- - - 26- - - 27- - - - -28- - - -29- - - - 30
31

It's FUN to read

Năm nay 2011 trong tháng Bảy có:
5 ngày thứ Sáu,
5 ngày thứ Bảy và
5 ngày Chủ Nhật.

Điều naỳ chỉ xuất hiện một lần trong 823 năm. Đó được gọi là những may nắm. Do đó chuyển mail này cho bạn bè thân thuộc sau bốn ngày thì tiền sẽ đến với mình. Thuyết phong thủy.

Khá ly kỳ phaỉ không? Đọc tiếp cho vui nha! Năm nay có những ngày rất đặc biệt

1/1/11, 1/11/11, 11/1/11, 11/11/11 và thêm không kém phần ly kỳ như sau...

Lấy hai con số cuối cùng cuả năm sinh của mình (ví dụ sinh năm 1980 thì lấy số 80) cộng với số tuối năm nay (sinh 1980 thì năm nay là 31 tuổi) (80 + 31=111)

Thí dụ MINH sinh năm 1958, vậy thì: 2011-1958=53; Do đó: 58 + 53=111

Kết quả sẽ luôn luôn là 111 cho tất cả mọi người trên trái đất này.

Theo truyền thuyết thì gởi điện tin này cho 8 người bạn thân, tiền sẽ đến với ta trong 4 ngày sau. Đó là thuyết phong thuỷ! Ha, ha, ha!
Kỳ lạ phải không? thử coi sao, đâu có mất thứ gì! Chúc may mắn

Thứ Tư, 8 tháng 6, 2011

Bóng Chiều Quê

Kìa thôn quê dưới trăng vàng bát ngát. Ánh trăng thanh chiếu qua làng xơ xác. Chiêu hồn về bao khúc ca yêu đời. Mừng trăng lên chúng ta cùng múa hát. Ước mong sao lúa hai mùa thơm ngát. Lúa về mang bao khúc ca ngày mùa... (Khúc Ca Ngày Mùa của Lam Phương).

Mỗi khi nghe đến mấy bài hát diễn tả những sinh hoạt nơi đồng quê, như cảnh gặt hái của ngày mùa, hay những buổi tối giả gạo dưới trăng tôi chợt nhớ đến quê tôi tha thiết. Nhớ những buổi chiều nghe tiếng mõ đàn trâu đang đi về đâu đó, đang rộn lên một âm thanh rất vui tai. Chiếc mõ mà người dân quê thường đeo vào cổ trâu, để khi thả trâu ra đồng, trâu đi về hướng nào, thì người mục đồng nghe biết để đón trâu về. Chỉ đơn giản vậy thôi, mà âm thanh ấy nghe chừng như một điệu nhạc muôn đời của tình quê của hồn nước. Tiếng nhạc ấy khi nhặt khi khoan cũng báo cho chúng ta những tín hiệu là trâu đang cặm cụi ăn cỏ, hay trâu đã no nê và rủ nhau thong thả về chuồng. Sự khoan thai của những con trâu đã no cỏ, đang thong thả đi về cũng đã tạo nên hình ảnh an nhàn vào lòng người ảnh hưởng.

Bóng dáng của chú mục đồng ngồi ngất nghểu trên lưng trâu, cũng thảnh thơi biết mấy, mỗi khi chiều về. Cảm thấy sung sướng khi đã làm xong công việc trong ngày, cất nông cụ vào nhà ăn cơm và nghỉ ngơi. Ngồi bên chén cơm bốc hơi mùi gạo mới như đang kích thích dịch vị khát đói, sau một ngày làm lụng vất vã ngoài đồng áng. Buổi cơm chiều, thường thì với dĩa rau luộc chấm mắm nêm, vài quả cà dầm nước mắm, nhưng cảm thấy ngon lạ lùng. Vì ngoài ba bửa cơm, người nông phu không còn có gì để ăn thêm. May ra thỉnh thoảng mới có một bửa chè nếp, hay chè khoai môn, cho giữa buổi chiều. Vì miền quê về mùa hè trời nóng bức, khát nước liên tục và thèm chất ngọt khủng khiếp. Còn có lúc nào sung sướng cho bằng, làm việc đến lúc nửa chiều, vừa mệt bụng lại đói mà thấy người nhà bưng ra một soong chè, hay nồi khoai luộc? Mang đến dưới bóng mát nghỉ ngơi và ăn uống, những lúc ấy thật là cái thú tuyệt vời. Như đang tiếp sức thêm cho người nông phu, làm việc nặng nhọc dưới nắng mưa, trong những ngày phải cày bừa cho kịp vụ. Vất vã trăm bề, nhưng nhờ trời cũng được bù lại cho người nông phu, qua những tháng được nghỉ ngơi và giải trí. Việc nghỉ ngơi và giải trí của họ cũng đơn sơ lồng trong công việc làm theo mùa. Qua những câu ca như phân chia một thời khóa biểu từng việc: Tháng giêng là tháng ăn chơi. Tháng hai trồng đậu, trồng khoai, trồng cà. Tháng ba thì đậu đã già. Ta ra đồng hái về nhà phơi khô. Tháng tư đi tậu trâu bò. Để cho ta lại kịp mùa tháng năm…

Công việc khi nhặt khi khoan ấy, cũng điều hòa cho tinh thần của nhà nông. Để lúc mệt mỏi, còn có lúc thưởng thức những thú vui chơi. Họ vui với nếp sống đạm bạc, nhưng tình cảm thì luôn sâu đậm và đằm thắm. Gặp nhau trong những lễ hội hay các buổi tế lễ trong đình làng, đều chia sẻ cho nhau những nguồn cảm dạt dào. Cảnh buổi sáng ra đồng, hay tiếng kỉu kịt của trai gái trong làng đang gánh lúa về đầu xóm, tiếng cười pha lẫn tiếng chuyện trò dòn tan trong không gian tưởng như rộn rã lên. Trên ngọn cây cao ánh nắng xuyên qua những áng mây như giải lụa trời thướt tha, đang lơ lửng như sắp sửa buông màn. Cảnh về chiều của thôn làng như cuốn hút và thu gọn lại từng bước chân của người dân quê đi làm trở về nhà, và trả lại cho không gian tỉnh mịt của ruộng đồng. Khi ấy xóm làng cũng trở nên yên ả, vì gia đình nào cũng có vườn rộng, nhà nầy cách nhà khác vài ba trăm thước là thường. Thế nên mỗi làng từ xóm dưới lên đến xóm trên, cũng cách xa vài ba cây số. Ở thôn quê đất đai rộng rãi, nhà ở thưa thớt, không khí trong lành nên cảm thấy thoải mái. Nhờ vậy mà người dân quê ít khi đau ốm, tuổi thọ cũng cao. Công việc đồng áng tuy vất vã, chân lấm tay bùn nhưng không mảy may lo lắng. Khỏe thì làm, mệt mỏi thì nghỉ ngơi. Làm việc nhà cũng không tính giờ tính giấc, thấy bóng mặt trời đã ngã thì dọn dẹp lùa trâu về.

Vì công việc nông gia thì quanh năm suốt tháng, chứ đâu ngày một ngày hai mà phải làm cho xong trong một lúc. Cứ từ từ theo đà phát triển của cây cối trồng trọt. Đến mùa gieo mạ, cũng phải đợi mạ lên, cấy xong vụ cũng phải đợi cho cây lúa phát triển, mới đến việc nhổ cỏ bón phân. Như cái thời khóa biểu giúp cho người nông dân để làm việc. Trong một ngày cũng vậy, buổi sáng dắt trâu ra đồng, cày bừa đến lúc thấy vừa đủ cho một ngày. Đất được cày xới coi ngang ngửa với số đất cày hôm qua, hôm kia thì thấy đã yên lòng rồi. Thường thì người ta dùng mặt trời thay đồng hồ để biết giờ giấc. Làm lụng cho đến khi mặt trời ngả bóng chiều, chim bay về tìm tổ sau một ngày đi kiếm ăn. Chim tìm về những hàng cây đầu ngõ, để ẩn núp qua đêm. Và người nông phu cũng về, như chim. Họ tìm về dưới mái nhà tranh đầm ấm, tìm về với bửa cơm tối sum vầy. Tìm về với niềm hạnh phúc muôn đời của gia đình ấp ủ. Những lúc tìm về ấy, thật đẹp làm sao. Sẽ dịu dàng mến yêu cho vơi đi những giây phút mệt nhọc đã qua, bồi dưỡng thêm sức sống tràn đầy cho những ngày tháng sắp tới.

Bóng ráng sau đồi như lần lượt đổi sắc theo từng giây từng phút, như người thợ vẽ đang tô lên khung hình từng vệt sơn dầu bóng loáng. Xa xa trên trời, chợt hiện một vài nét chấm phá của những cánh chim đang bay về tìm chỗ đậu. Bức tranh thiên nhiên ấy, bây giờ có ai vẽ lại được không cho tôi tìm lại một khung trời kỷ niệm, mà từ lâu đã nhạt nhòa bóng nhớ. Vì tuổi thơ tôi đã gắn liền, đã điểm lên bức tranh ấy từng dấu chân vụng dại, một chuỗi đời ngọt ngào hương hoa. Thì làm sao tôi đành xóa mờ, hay quên đi sao nỡ? Mùi hương của buổi sáng tinh sương tỏa ra từ bông bưởi, bông cau. Hay từ buổi hoàng hôn thơm lừng hương lan hay dạ lý. Tuy đơn sơ nhưng đã thấm đậm vào lòng, khắc ghi vào dạ. Vài bóng chim đang bay về tìm chỗ đậu, in đậm dưới nền trời xanh nhạt như những chấm phá trong bức tranh thiên nhiên, rất hùng vĩ nhưng dịu dàng ấy như hồn thiên cổ của quê hương yêu dấu. Đang vẽ đi vẽ lại mãi những chuyển hóa của vũ trụ, của thời gian không ngừng trôi dần về tương lai.

Bóng chiều quê thật dịu dàng và thanh thoát, nét đơn sơ nhưng gợi lại trong lòng người bao nỗi nhớ nhung diệu vợi. Nỗi nhớ không hình không ảnh ấy, tuy khó hình dung nhưng đã bám theo suốt kiếp. Như những ngọn khói tỏa lên dưới túp lều tranh, tỏa mùi thơm ngai ngái của cây cỏ, của đất đai, phân bón... nhưng cũng còn thoảng mùi hương hoa cỏ dại để trang sức cho không gian thôn quê, được dung hòa khứu giác, được lãng đãng mộng mơ trong những phút giây nhàn rỗi. Những lúc ấy thật là tuyệt vời, vì người dân quê không bao giờ tiêu khiển bằng những chất độc hại, nên cảm giác cũng được thuần khiết và thanh tao. Nên tinh thần vẫn luôn trong sáng để đón nhận mến yêu, để luyến lưu kỷ niệm. Kỷ niệm từ buổi tinh khôi, từ lòng son trẻ đã thấm nhuần thì không bao giờ tàn phai úa héo. Nó như nhựa sống để nuôi cây, cũng như việc đọc sách, giải trí để cho tinh thần được thoải mái.

Ở thôn quê, người ta thường làm nhà trở mặt ra hướng đông. Buổi chiều gần tối gió đông thổi lên mang hơi nước biển, nên khí hậu cũng được dịu lại. Quanh vườn nhà thường trồng cây ăn trái rậm rạp, nên ban ngày muỗi mòng ra ẩn núp ngoài vườn. Đến tối thì bay vào nhà tìm hơi ấm. Nên người dân quê hay nhúm một bếp trấu trước sân, nhờ gió thổi tạt vào nhà để xua đi muổi mòng. Cho nên các văn nhân thường gọi là “bếp chiều, khói lam chiều, hay mái tranh chiều thở khói...” tiếng gọi nghe cũng hay hay, cho nên bếp trấu trước nhà là một biểu tượng đặc thù của miền thôn dã. Như hơi hướm của tình quê sưởi ấm bóng chiều. Nên nhà nào cũng nhóm một bếp trấu trước nhà, nhờ khói bốc lên xua đi ruồi muỗi. Không chỉ là mùa hè thu mà thôi, mà mùa đông cũng còn nhóm được bếp trấu. Vì dầu ngoài trời có mưa lất phất, ướt trên mặt nhưng trong lòng bếp vẫn ngun ngút cháy hoài. Nhờ vậy mà dân quê cũng được ấm áp, vơi bớt cảm giác quạnh hiu mỗi khi hoàng hôn buông xuống.

Cảnh rộn ràng nhất, vui thú nhất là những mùa trăng. Người dân quê thường nhờ vào ánh sáng trăng, để làm lụng về đêm ở trước sân. Như đập lúa, giã gạo hay dọn bửa cơm tối ngoài sân, cũng nhờ đến ánh sáng của trời. Cứ mỗi mùa trăng, người dân quê thường đo bóng trăng theo câu hát đồng dao: Mồng một lưỡi ca, mồng ba lưỡi liềm, mồng năm lưỡi quéo, mồng sáu trăng méo, mồng bảy trăng non... mười tám nám bếp trấu, mười chín nín hông xôi, hai mươi giấc tốt, hâm mốt nửa đêm... (Ngày mồng một thì bóng trăng chỉ mới như lưỡi gà, mồng ba dày thêm một chút như lưỡi liềm cắt cỏ, đến mồng năm thì lại dày thêm một chút như lưỡi quéo dùng để móc buồng cau, hái trái dừa... đến ngày mười tám thì bếp trấu nhúm trước nhà đã cháy nám một nửa, đêm mười chín thì khi nấu chín hông xôi, đêm hai mươi là mọi người đều ngủ ngon giấc, gần nửa đêm trăng mới mọc...)

Con trăng mới mọc là hình ảnh đem đến thanh bình cho xóm thôn, đem đến niềm vui cho bé thơ, đem đến mộng mơ cho các chàng trai mới lớn, cho các cô thôn nữ dậy thì. Dưới bóng trăng quê được đùa vui ca hát, những khúc hát thật thiết tha qua vần điệu ca dao muôn đời mật ngọt. Và cứ hát như vậy để tính con trăng, là một điệu nhạc vui nhộn của lũ trẻ trong làng cùng nhau đùa vui... Giờ nhắc lại mà nhớ ơi tiếng hát đồng dao của thời nào tuổi nhỏ. Cứ vang vọng mãi mỗi khi nhớ về, như tiếng lòng muôn thuở ấy không bao giờ phai.

Những buổi trưa hè thì nhờ vào những tàng cây đa đầu làng, để cho lũ trâu nằm nghỉ ngơi nhai cỏ. Không khí oi bức, làm cho người và vật đều uể oải, khó chịu. Tiếng gà trưa trong xóm cất lên tiếng gáy não nuột. Hay nơi mái lá sau hàng tre, vọng lại tiếng kỉu kịt võng đưa, và rười rượi buồn của tiếng bà ru cháu:

À ơi... Ngó qua bên tê khe
Thấy mấy bụi tre, chơ... bụi trừa bụi đựng
Rứa...Ngó xuống dưới sông nọ
Có mấy hòn đá, hòn dựng mà hòn ư ư... nằm
À ơi...Tình vợ chồng là đạo nghĩa trăm năm
Dẫu mai sau có giàu sang ...rồi mà...phú quý
(À ơi... có giàu sang... mà phú quý...
Thì chớ quên cái thuở lá trải lá ư ư ...nằm với nhau!


Câu hát đơn sơ mộc mạc của ngôn ngữ dân quê, nhưng đã chứa đựng một tình ý thiết tha với tình nghĩa vợ chồng: (nhìn qua bên kia suối, thấy mấy bụi tre, bụi mọc nơi chỗ bằng phẳng thì vươn thẳng lên cao, bụi mọc bên bờ cheo leo thì lã ngọn xuống. Nhìn xuống bờ sông có mấy hòn đá, hòn thì dựng, hòn thì nằm. Đây là diễn tả về cảnh thiên nhiên của tạo hóa. Để từ đó diễn giải về tình vợ chồng là cái đạo nghĩa của suốt một cuộc đời. Và đi đến một lời khuyên phải gìn giữ cái đạo làm người: Là vợ chồng nên chung sống với nhau cho tròn thủy vẹn chung. Dẫu mai sau có giàu sang phú quý, thì đừng quên cái thuở "lá trải lá nằm", tức là cái thời hàn vi.

Vì thường ở thôn quê, người nông phu buổi sáng ra đồng cày cấy, đến trưa người vợ mới mang cơm ra cho chồng. Cơm thường nấu xong rồi đem gói vào một chiếc mo cau, ém lại thật chặt. Đến khi mở ra dùng dao xắt thành từng lát, chấm với muối mè, hay muối đậu phụng sả ớt và được ăn lúc bụng đã đói cồn cào, thì hỏi còn cao lương mỹ vị nào mà ngon hơn thế nữa? Cơm được đưa đến dưới gốc một bụi chuối (chuối là loại cây ưa sống chỗ thấp có nhiều nước, nên bên bờ ruộng người ta thường trồng chuối), rồi người vợ ngắt một tàu chuối trải ra để dọn cơm cho chồng ăn; rồi ngắt một tàu chuối khác để quạt cho chồng mát. Khi ăn uống xong thì người vợ lại ngắt một tàu chuối trải ra cho chồng nằm nghỉ ngơi một chút cho khoẻ). Những việc săn sóc chồng ấy là người vợ đã chia sẻ một phần công lao với chồng. Nên lúc ấy là lúc mà tình nghĩa vợ chồng trở nên đậm đà thân thiết. Và lúc ấy cũng là lúc chứng tỏ tình cảm vợ chồng đẹp nhất. Cái đẹp không hình dáng, không thể vẽ lên một bức tranh cho người đời chiêm ngưỡng. Nhưng nó sẽ hiện hữu như một bức tranh vô tướng, mà những ai đã sống qua những tháng ngày với quê hương yêu dấu ấy. Đều vẫn còn mãi trong tâm thức hình bóng tình nghĩa vợ chồng, hay hình bóng quê hương muôn thuở.

Tình tự của người dân quê thì đơn sơ như thế đó, nhưng cũng đẹp biết bao. Cái đẹp không son phấn, cái đẹp hồn nhiên nhưng vĩnh cửu, không bao giờ đổi thay, không bao giờ phai tàn. Vì tâm hồn của họ được ướp bằng hương đồng cỏ nội, được thở không khí trong lành tinh khiết của miền quê, được ăn rau tươi, trái chín tới và nhất là tình bà con làng xóm luôn đầm ấm như bếp lửa hồng mẹ nhóm, để sưởi ấm những chiều đông.

Thế nên mỗi lần đi xa được trở về, đi ngang qua cảnh đồng quê trong lúc mùa về, là mỗi lần nỗi nhớ như quặn thắt. Nhớ làn gió nhẹ lùa qua hàng tre tiếng đưa kỉu kịt, phảng phất mùi hoa dại ven đường hay hương lúa từ những cánh đồng trải dài đưa lại. Nhưng tất cả đã xa rồi, nên biết tìm đâu ra kỷ niệm xưa, khung trời cũ, cho lòng được gởi về để ấp ủ mến yêu.

Giờ đây nơi đất khách quê người, nơi muôn vàn xa lạ với thời tiết mùa đông băng giá, mà mùa hạ cũng hiu hắt lạnh lùng, khiến cho lòng ta mãi vẫn nỗi buồn. Vì đã xa rồi những mùa hè nồng ấm, những buổi tàn thu gió lành lạnh sang đông. Cái lạnh chỉ hơi se một chút của ngọn gió heo may cho chớm hồng nắng xuân, cho chớm vàng bông cải. Lòng trời rộng đã ôm ấp quê hương như vòng tay mẹ ôm con. Thời tiết bốn mùa đã dung hòa tưới tắm cho đồng ruộng xanh mầu, cho vườn cây xanh lá, như tình mẹ mãi muôn đời quạt nồng ấp lạnh cho con.

Nên hình bóng quê hương vẫn mãi như trăng đầu núi, như nguyệt đêm rằm. Ánh sáng vẫn vằng vặc trong lòng muôn thu, vẫn soi lên muôn vàn nỗi nhớ. Nhớ những buổi chiều vàng, khi nắng dần tắt sau đồi với hình bóng cha đang trở về sau một ngày làm lụng ngoài đồng. Hình bóng ấy cũng vẫn còn vằng vặc muôn thu, vẫn thấm nhuần vào lòng con như cha đã âm thầm trao truyền những cảm xúc, những lời yêu thương không nói. Như mẹ đã một đời tận tụy, vắt sửa nuôi con với ngày hạ quạt nồng, với đêm đông đắp ấm và hướng dẫn cho con từ những bước đi vừa chập chững vào đời.

Và bây giờ đã xa, bây giờ đã nghìn trùng một hình bóng cha, một hình bóng mẹ và một hình bóng quê hương, như tất cả đã hòa tan và gói tròn vào niềm nhớ. Nên mỗi khi chiều về sẽ không còn tìm đâu thấy khung trời cũ, bóng hình xưa rất thiết tha, rất dịu dàng từ ái. Nhưng hình ảnh ấy, bóng dáng kia sẽ không bao giờ nhòa phai trong lòng người xa xứ. Và hình ảnh ấy muôn đời vẫn đẹp, muôn đời vẫn thơm tho, ngọt ngào...

Ôi ! "Bóng chiều quê".


Trần Đan Hà


Gạo Trắng Trăng Thanh, Ngọc Cẩm & Nguyễn hữu Thiết

Mặt trời bùng cháy, phát ra những vi hạt về phía trái đất

Một vụ bùng cháy cỡ trung bình xảy ra trên bề mặt mặt trời làm phát sinh một đám mây khổng lồ những hạt nhỏ mang tích điện tiến về phía quả đất. Tuy nhiên Cơ quan quản trị hàng không và không gian Hoa Kỳ NASA nói là những vi hạt này sẽ trượt qua từ trường của quả đất và có thể không là mối đe dọa cho hành tinh này hoặc cho những phi hành gia đang bay trên quỹ đạo địa cầu, hoặc những vệ tinh điện tử nhạy cảm hay truyền tin trên mặt đất.

Cơ quan khí tượng quốc gia Mỹ nói việc bùng phát qui mô lớn như vậy hay còn gọi là CME, được ghi nhận vào hôm thứ Ba có thể đến quả đất vào lúc 12 giờ, giờ quốc tế, vào ngày thứ Năm 9 tháng 6.

Các nhà khoa học nói khi CME phóng ra những tia sáng như vậy vào từ trường quả đất thì sẽ tạo nên vùng hào quang sáng chói và nhiều màu sắc trên bầu trời đêm trên những đường vĩ tuyến cực nam và cực bắc.

Các nhà thiên văn cho biết là thêm vào CME, sự bùng cháy của mặt trời hôm thứ Ba cũng gây nên những dòng khí nóng ngoạn mục trãi rộng trên thượng tầng khí quyển mặt trời và rơi xuống trở lại bao phủ gần hết một nửa bề mặt mặt trời.

Các nhà thiên văn nói mặt trời đang đi vào thời kỳ bùng cháy dữ dội trong chu kỳ 11 năm thường lệ. Thời kỳ mới mặt trời có hoạt động tối đa sẽ lên đến đỉnh điểm vào năm 2013.

Thứ Bảy, 4 tháng 6, 2011

Mừng sinh nhật Blog

Hưởng ứng mừng ngày sinh nhật cuuhocsinhhailongphanboichau.com - Mời các anh chị và các bạn thưởng thức tác phẩm "Tiếng hát học trò" do Cẩm Ly và Quốc Đại trình bày đồng thời nhìn lại một số hình ảnh Thầy, cô, học sinh Hải Long xưa và nay